ỨNG DỤNG CẮT LỚP VI TÍNH HAI MỨC NĂNG LƯỢNG TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH GÚT TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI

Trần Hiệp Hòa1,, Phạm Mạnh Cường2, Phạm Minh Thông2
1 Bệnh viện Ung bướu Hà Nội
2 Bệnh viện Bạch Mai

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm, hình ảnh cắt lớp vi tính hai mức năng lượng của bệnh nhân gút tại bệnh viện Bạch Mai và trình bày các loại nhiễu ảnh lắng đọng tinh thể urat cùng phương pháp xử lý. Đối tượng và phương pháp: Tổng số 36 bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính hai mức năng lượng trong chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt bệnh gút tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2020 đến tháng 08/2024. Phương pháp thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Kết quả: Nghiên cứu trên 36 bệnh nhân (31 bệnh nhân nam và 5 bệnh nhân nữ), tuổi trung bình là 52 tuổi (18 – 82). Xếp điểm ACR kết hợp lâm sàng và acid uric máu: 28 trường hợp thuộc nhóm 2, kết quả chẩn đoán phụ thuộc vào kết quả DECT (chiếm 77,8% trường hợp). Xếp điểm ACR kết hợp lâm sàng, acid uric máu và DECT: có 16 bệnh được chẩn đoán gút, DECT giúp chẩn đoán Gút bổ sung cho 11/16 chiếm ~69% trường hợp người bệnh Gút và chiếm ~ 39,3% trong nhóm 28 bệnh nhân nghi ngờ. Tỷ lệ tinh thể urat/gút: 15/16 bệnh nhân. Thể tích urat trung bình/gút: 3,91ml. Vị trí lắng đọng tinh thể urat: 60% thuộc khớp cổ bàn chân. Tỷ lệ gặp nhiễu ảnh: 27,8%. Các loại nhiễu ảnh hay gặp là: da dày, giường móng, chuyển động, điểm, chùm tia cứng. Nhiễu ảnh không phân định được hiếm gặp và cần phối hợp các tiêu chuẩn khác. Kết luận: DECT đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán xác định, phân biệt gút, đặc biệt trong các trường hợp tiêu chuẩn lâm sàng và xét nghiệm acid uric máu chưa đủ để khẳng định hay loại trừ bệnh. Nhiễu ảnh lắng đọng tinh thể urat là thường gặp, nhưng có thể được nhận biết và khắc phục để tránh các trường hợp dương tính giả, tăng độ chính xác trong chẩn đoán và điều trị.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

Dalbeth, N., T.R. Merriman, and L.K. Stamp, Gout. Lancet, 2016. 388(10055): p. 2039-2052.
2. Neogi, T., et al., 2015 Gout Classification Criteria: an American College of Rheumatology/ European League Against Rheumatism collaborative initiative. Arthritis Rheumatol, 2015. 67(10): p. 2557-68.
3. MacFarlane, L.A. and S.C. Kim, Gout: a review of nonmodifiable and modifiable risk factors. Rheum Dis Clin North Am, 2014. 40(4): p. 581-604.
4. Barbieri, L., et al., Impact of sex on uric acid levels and its relationship with the extent of coronary artery disease: A single-centre study. Atherosclerosis, 2015. 241(1): p. 241-8.
5. Nicholls, A., M.L. Snaith, and J.T. Scott, Effect of oestrogen therapy on plasma and urinary levels of uric acid. Br Med J, 1973. 1(5851): p. 449-51.
6. Latourte, A., T. Bardin, and P. Richette, Prophylaxis for acute gout flares after initiation of urate-lowering therapy. Rheumatology (Oxford), 2014. 53(11): p. 1920-6.
7. Ogdie, A., et al., Imaging modalities for the classification of gout: systematic literature review and meta-analysis. Ann Rheum Dis, 2015. 74(10): p. 1868-74.
8. Mallinson, P.I., et al., Artifacts in Dual-Energy CT Gout Protocol: A Review of 50 Suspected Cases With an Artifact Identification Guide. American Journal of Roentgenology, 2014. 203(1): p. W103-W109.