TỶ LỆ NHIỄM, THÀNH PHẦN LOÀI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NHIỄM VI NẤM NGOÀI DA Ở BỆNH NHÂN ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ

Phan Hoàng Đạt1, Nguyễn Thị Pha2, Trịnh Thị Hồng Của1, Nguyễn Thị Thảo Linh1,, Lê Nguyễn Uyên Phương1, Nguyễn Bùi Thái Huy1
1 Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
2 Trường Đại học Cần Thơ

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Việt Nam là một quốc gia nhiệt đới, nơi xuất hiện nhiều bệnh da liễu, trong đó có bệnh do vi nấm ngoài da. Việc chẩn đoán vi nấm ngoài da chủ yếu dựa vào phương pháp soi tươi nên có thể tồn tại một số bất lợi. Ngoài ra, một số thói quen trong sinh hoạt cũng có thể liên quan đến nhiễm vi nấm ngoài da. Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ nhiễm và thành phần loài vi nấm ngoài da ở bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ; (2) Khảo sát một số yếu tố liên quan đến nhiễm vi nấm ngoài da ở bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 92 bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ do vi nấm ngoài da đến khám tại phòng khám Da liễu, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ và được chỉ định xét nghiệm vi nấm soi tươi. Các mẫu bệnh phẩm được soi dưới kính hiển vi, cấy trên môi trường Sabouraud agar và Dermatophyte test medium để định danh. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm vi nấm ngoài da là 32,6%, trong đó Trichophyton rubrum chiếm tỷ lệ cao nhất (56,7%), kế đến là Trichophyton interdigitale (26,7%), Trichophyton mentagrophytes (13,3%) và Trichophyton tonsurans (3,3%). Các yếu tố da dầu, thường xuyên ra mồ hôi và tiền sử sử dụng thuốc bôi da liên quan đến nhiễm vi nấm ngoài da có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết luận: Tỷ lệ nhiễm vi nấm ngoài da còn khá cao (chủ yếu là loài Trichophyton rubrum) và da dầu, thường xuyên ra mồ hôi, tiền sử sử dụng thuốc bôi da có liên quan đến nhiễm vi nấm ngoài da. 

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

Phạm Văn Đời, Nguyễn Thị Thùy Trang & Huỳnh Văn Bá. (2023). Nghiên cứu tình hình và đánh giá kết quả điều trị nấm da dermatophytes bằng itraconazole uống kết hợp ketoconazole bôi tại chỗ tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ và Bệnh viện Da liễu thành phố Cần Thơ năm 2021-2022. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, (56), 137-144. DOI: https://doi.org/10.58490/ctump. 2023i56.517
2. Nguyễn Hồ Phương Liên, Tăng Tuấn Hải & Nguyễn Hoàng Chương. (2021). Tỷ lệ các chủng vi nấm ngoài da trên bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Da liễu Thành hố Hồ Chí Minh năm 2021. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 25(5), 213-219. DOI: https://doi.org/10.51298/ vmj.v508i2.1672
3. Nguyễn Thị Thảo Linh, Phan Hoàng Đạt, Lê Thị Cẩm Ly & Lê Nguyễn Uyên Phương. (2024). Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán vi nấm gây bệnh trên da bằng phương pháp soi trực tiếp và nuôi cấy định danh ở bệnh nhân đến xét nghiệm tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, (71), 34-40. DOI: https://doi.org/10.58490/ctump.2024i71. 2072
4. Vũ Văn Thái, Nguyễn Anh Ngọc, Đinh Thị Thanh Mai, Võ Thị Thanh Hiền & Phạm Thị Tâm. (2021). Thực trạng và một số yếu tố liên quan tới nhiễm nấm ngoài da ở bệnh nhân đến xét nghiệm tại Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 25(2), 41-47.
5. Nguyễn Thị Ngọc Yến, Phan Cảnh Trình, Tôn Hoàng Diệu & Nguyễn Lê Phương Uyên. (2019). Khảo sát mức độ nhạy cảm của nấm da phân lập tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh với Ketoconazole và Terbinafine. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 23(2), 55-60.
6. Aimoldina, A. A., Batpenova, G. R., Algazina, T. O., Kotlyarova, T. V., Amantayev, D. M., & Kiyan, V. S. (2023). Prevalence and impact on life quality of dermatophytosis in the world. Science & healthcare, 25(4), 246-257. DOI: 10.34689/SH.2023.25.4.030
7. Upadhyay, V., Kumar, A., Singh, A. K., & Pandey, J. (2019). Epidemiological characterization of dermatophytes at a tertiary care hospital in Eastern Uttar Pradesh, India. Current medical mycology, 5(1), 1-6. DOI: 10.18502/cmm.5.1.530
8. Usman, B., Rehman, A., Naz, I., & Anees, M. (2021). Prevalence and antifungal drug resistance of dermatophytes in the clinical samples from Pakistan. Acta Microbiologica et Immunologica Hungarica, 68(4), 291-296. DOI: 10.1556/ 030.2021.01461