SỰ CẢI THIỆN CÁC NHÓM TRIỆU CHỨNG VẬN ĐỘNG SAU PHẪU THUẬT KÍCH THÍCH NÃO SÂU Ở BỆNH NHÂN PARKINSON

Trần Ngọc Tài1,2,, Phạm Anh Tuấn1,3, Phan Xuân Quang4
1 Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh
2 Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh
3 Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
4 Bệnh viện Quân Y 175

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mở đầu: Kích thích não sâu (KTNS) là phương pháp điều trị xâm lấn giúp cải thiện các triệu chứng vận động ở bệnh nhân bệnh Parkinson giai đoạn tiến triển. Tuy nhiên, hiệu quả của KTNS trên từng nhóm triệu chứng vận động ở bệnh nhân Việt Nam hiện vẫn chưa được đánh giá. Phương pháp: Đây là một nghiên cứu quan sát tiến cứu. Những bệnh Parkinson giai đoạn tiến triển đã được điều trị phẫu thuật KTNS được đưa vào nghiên cứu. Người tham gia được thu thập thông tin về nhân khẩu học, lâm sàng, thuốc điều trị, các thông số KTNS và được đánh giá thang MDS-UPDRS lúc “tắt” máy/ “tắt” thuốc, “bật” máy/”tắt” thuốc và “bật” máy/”bật” thuốc. Phân tích thống kê được tiến hành trên phần mềm SPSS 20. Kết quả: Tổng cộng có 39 bệnh nhân Parkinson giai đoạn tiến triển được KTNS. Tuổi trung bình tại thời điểm nghiên cứu là 63,1 ± 9,6. Thời gian đã được tiến hành KTNS là 3.05 ± 2.71 năm. Tổng liều levodopa tương đương LED là 480 ± 276 mg. Các nhóm triệu chứng vận động như run, đơ cứng, chậm vận động, rối loạn dáng đi có cải thiện nhiều với KTNS với tổng điểm MDS-UPDRS phần III ở gian đoạn “tắt máy”/ “tắt thuốc” và “bật máy/tắt thuốc” lần lượt là 12.97 ± 7.46 và 4.41 ± 4.43; 11.46 ± 2.45 và 6.33 ± 3.16; 27.44 ± 6.62 và 17.77 ± 5.52; 7.94 ± 3.85 và 5.79 ± 3.47; và 63.92 ± 17.002 và 37.59 ± 13.463 (p<.001). Triệu chứng thăng bằng cải thiện ít hơn với điểm giai đoạn “tắt máy”/ “tắt thuốc” và “bật máy/tắt thuốc” lần lượt 2.44 ± 1.19 và 1.79 ± 1.42 (p=0.04). Triệu chứng giọng nói không hiệu quả với KTNS với điểm giai đoạn “tắt máy”/“tắt thuốc” và “bật máy/tắt thuốc” lần lượt là 1.59 ± 0.79 và 1.59 ± 0.91 (p=1). Tất các các nhóm triệu chứng vận động đều cải thiện ở giai đoạn “bật máy/bật thuốc” (p<0.001). Kết luận: Ở bệnh nhân Parkinson giai đoạn tiến triển, KTNS cải thiện đáng kể các triệu chứng vận động ngoại biên như chậm cử động, đơ cứng và run nhưng cải thiện ít triệu chứng thăng bằng và không cải thiện triệu chứng giọng nói.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

Findley L. J. (2007), "The economic impact of Parkinson's disease". Parkinsonism Relat Disord, 13 Suppl, pp. S8-s12.
2. Connolly B. S., Lang A. E. (2014), "Pharmacological treatment of Parkinson disease: a review". Jama, 311 (16), pp. 1670-83.
3. Sveinbjornsdottir S. (2016), "The clinical symptoms of Parkinson's disease". J Neurochem, 139 Suppl 1, pp. 318-324.
4. Okun M. S., Fernandez H. H., Pedraza O., al. et (2004), "Development and initial validation of a screening tool for Parkinson disease surgical candidates". Neurology, 63 (1), pp. 161-3.
5. Weaver F. M., Follett K., Stern M., al. et (2009), "Bilateral deep brain stimulation vs best medical therapy for patients with advanced Parkinson disease: a randomized controlled trial". Jama, 301 (1), pp. 63-73.
6. Blomstedt P., Stenmark Persson R., Hariz G. M., et al. (2018), "Deep brain stimulation in the caudal zona incerta versus best medical treatment in patients with Parkinson's disease: a randomised blinded evaluation". J Neurol Neurosurg Psychiatry, 89 (7), pp. 710-716.
7. Fahn S., Oakes D., Shoulson I., al. et (2004), "Levodopa and the progression of Parkinson's disease". N Engl J Med, 351 (24), pp. 2498-508.
8. Castrioto A., Lozano A. M., Poon Y. Y., al. et (2011), "Ten-year outcome of subthalamic stimulation in Parkinson disease: a blinded evaluation". Arch Neurol, 68 (12), pp. 1550-6.
9. Rodriguez-Oroz M. C., Obeso J. A., Lang A. E., al. et (2005), "Bilateral deep brain stimulation in Parkinson's disease: a multicentre study with 4 years follow-up". Brain, 128 (Pt 10), pp. 2240-9.