ĐÁNH GIÁ HÌNH THÁI VÀ PHÂN LOẠI GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI TRÊN CT-SCAN DỰNG HÌNH 3D TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trần Nguyễn Phương1,2,, Đinh Thanh Long1, Bùi Hồng Thiên Khanh1,2
1 Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
2 Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Gãy xương vùng mấu chuyển là một trong những dạng gãy xương vùng háng phổ biến nhất ở người cao tuổi. Phân loại gãy xương vùng mấu chuyển là yếu tố quyết định chiến lược điều trị phù hợp. Nghiên cứ này nhằm mục tiêu đánh giá hình thái và số lượng mảnh gãy liên mấu chuyển xương đùi trên CT-scan dựng hình 3 bình diện theo phân loại Nakano-Shoda (2017) và phân loại Wada (2019). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 47 bệnh nhân gãy liên mấu chuyển xương đùi được chụp CT-scan dựng hình 3D từ tháng 1/2021 đến tháng 8/2022. Phân tích hình thái ổ gãy theo hai bảng phân loại mới dựa trên CT-scan. Kết quả: Theo Nakano-Shoda, loại gãy thường gặp nhất là 3 mảnh G-L (53,2%), kế đến là gãy ≥4 mảnh (19,2%). Tỷ lệ gãy không vững chiếm 76,6%. Theo Wada, kiểu gãy phổ biến nhất là 4 mảnh GP/L (44,7%). Cơ chế gây mất vững chủ yếu là mất vững thành sau trong đơn thuần (46,8%) và mất vững sau trong kèm mất vững thành ngoài (21,3%). Một số trường hợp được phân loại gãy vững trên X-quang nhưng thực tế là gãy không vững khi đánh giá trên CT-scan 3D. Kết luận: CT-scan 3D giúp phát hiện chính xác các trường hợp gãy không vững. Phân loại Wada giúp phân tích chi tiết cơ chế mất vững, trong khi phân loại Nakano-Shoda đơn giản và thực tế hơn trong ứng dụng lâm sàng.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

5.1. Về hình thái gãy xương theo phân loại Nakano-Shoda
- Loại gãy thường gặp nhất là 3 mảnh G-L (53,2%), kế đến là gãy ≥4 mảnh (19,2%)
- Tỷ lệ gãy không vững chiếm đa số (76,6%)
- Một số trường hợp được phân loại gãy vững trên X-quang nhưng thực tế là gãy không vững khi đánh giá trên CT-scan 3D
5.2. Về hình thái gãy xương theo phân loại Wada
- Kiểu gãy phổ biến nhất là 4 mảnh GP/L (44,7%)
- Cơ chế gây mất vững chủ yếu là mất vững thành sau trong đơn thuần (46,8%) và mất vững sau trong kèm mất vững thành ngoài (21,3%)
5.3. Ứng dụng trong thực hành
- CT-scan 3D giúp phát hiện chính xác các trường hợp gãy không vững
- Phân loại Wada giúp phân tích chi tiết hơn về cơ chế mất vững, hữu ích trong lập kế hoạch điều trị
- Phân loại Nakano-Shoda đơn giản và thực tế hơn trong ứng dụng lâm sàng hàng ngày
Kết quả nghiên cứu này góp phần cung cấp thêm bằng chứng về giá trị của CT-scan 3D và các bảng phân loại mới trong đánh giá gãy liên mấu chuyển xương đùi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tawari AA, et al. What makes an intertrochanteric fracture unstable in 2015? J Orthop Trauma. 2015;29:S4-S9.
2. Kellam JF, et al. Fracture and Dislocation Classification Compendium-2018. J Orthop Trauma. 2018;32.
3. Shoda E, Kitada S, Sasaki Y, et al. Proposal of new classification of femoral trochanteric fracture by three-dimensional computed tomography and relationship to usual plain X-ray classification. J Orthop Surg (Hong Kong). 2017;25(1): 2309499017692700.
4. Nakano T. Proximal femoral fracture. Seikeigeka. 2014;65:842-850.
5. Wada K, et al. A novel three-dimensional classification system for intertrochanteric fractures based on computed tomography findings. J Med Invest. 2019;66:362-366.
6. Abdullah MES. The role of preoperative computed tomography in surgical planning of intertrochanteric femur fractures fixation. Int J Res Orthop. 2021;7(2):211.
7. Cho JW, Kent WT, Yoon YC, et al. Fracture morphology of AO/OTA 31-A trochanteric fractures: A 3D CT study with an emphasis on coronal fragments. Injury. 2017;48(2):277-284.
8. Sharma G, Gn KK, Khatri K, et al. Morphology of the posteromedial fragment in pertrochanteric fractures: A three-dimensional computed tomography analysis. Injury. 2017;48(2):419-431.
9. Han SK, Lee BY, Kim YS, et al. Usefulness of multi-detector CT in Boyd-Griffin type 2 intertrochanteric fractures with clinical correlation. Skeletal Radiol. 2012;39(6):543-9.
10. Li M, Li ZR, Li JT, et al. Three-dimensional mapping of intertrochanteric fracture lines. Chin Med J (Engl). 2019;132(21):2524-2533.