ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ ĐỘT BIẾN GEN LIÊN QUAN ĐẾN ĐIỀU TRỊ THUỐC ĐÍCH Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ

Nguyễn Ngọc Sơn1,, Nguyễn Thị Trang1,2, Lê Văn Quảng1,3, Nguyễn Xuân Hậu1,2, Tạ Hồng Hải Đăng1, Nguyễn Ngọc Phương4, Nguyễn Thị Minh Hạnh5, Nguyễn Thu Hằng6, Lê Thị Quyên7, Tô Thị Thu Hà8, Lê Minh Châu1, Đinh Thị Phương Anh1
1 Trường Đại học Y Hà Nội
2 Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
3 Bệnh viện K
4 Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
5 Bệnh viện châm cứu Trung ương
6 Bệnh viện A Thái Nguyên
7 Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội
8 Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc Gia Hà Nội

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Ung thư vú (UTV) là bệnh lý ác tính hàng đầu với tỷ lệ mắc và tử vong ngày càng gia tăng ở phụ nữ, hiểu biết về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đột biến gen liên quan đến điều trị đích là cần thiết để tối ưu hóa chiến lược chẩn đoán và điều trị. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đột biến gen liên quan đến điều trị thuốc đích ở bệnh nhân UTV. Đối tượng phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu trên 109 phụ nữ được chẩn đoán xác định mắc UTV, trong đó có 52 bệnh nhân có kết quả giải trình tự gen NGS. Kết quả: trong 109 bệnh nhân có 58 bệnh nhân trong độ tuổi từ 40 - 60 tuổi (53,2%), tiền sử gia đình ghi nhận 13 bệnh nhân (11,9%) trong khi có 98 bệnh nhân (89.9%) vào viện vì sờ thấy khối u. Tình trạng di căn hạch quan sát thấy ở 68 trường hợp (62,4%), với kích thước khối u từ 2 – 5 cm chiếm tỉ lệ cao nhất. Giải trình tự gen trên 52 bệnh nhân xác định ba đột biến chính: BRCA1, BRCA2 và PIK3CA, trong đó BRCA1 là đột biến phổ biến nhất (15,4%). Cả ba đột biến này đều có liệu pháp điều trị đích theo khuyến cáo lâm sàng. Kết luận: Bệnh nhân UTV có sự đa dạng về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng, trong đó kích thước khối u có mối tương quan chặt chẽ với tình trạng di căn hạch. Sự hiện diện của các đột biến BRCA1, BRCA2 và PIK3CA có ý nghĩa quan trọng trong sinh bệnh học UTV và định hướng điều trị cá thể hóa với thuốc đích.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. on CITfR. Global Cancer Observatory. https://gco.iarc.fr/.
2. Shoemaker ML, White MC, Wu M, Weir HK, Romieu I. Differences in breast cancer incidence among young women aged 20–49 years by stage and tumor characteristics, age, race, and ethnicity, 2004–2013. Breast cancer research and treatment. 2018;169:595-606.
3. Haber G, Ahmed NU, Pekovic V. Family history of cancer and its association with breast cancer risk perception and repeat mammography. American journal of public health. 2012;102(12):2322-2329.
4. Koo MM, Von Wagner C, Abel GA, McPhail S, Rubin GP, Lyratzopoulos G. Typical and atypical presenting symptoms of breast cancer and their associations with diagnostic intervals: Evidence from a national audit of cancer diagnosis. Cancer epidemiology. 2017;48:140-146.
5. Al-Azri M, Al-Baimani K, Al-Awaisi H, et al. Knowledge of symptoms, time to presentation and barriers to medical help-seeking among Omani women diagnosed with breast cancer: a cross-sectional study. BMJ open. 2021;11(1):e043976.
6. Sopik V, Narod SA. The relationship between tumour size, nodal status and distant metastases: on the origins of breast cancer. Breast cancer research and treatment. 2018;170:647-656.
7. Giaquinto AN, Sung H, Miller KD, et al. Breast cancer statistics, 2022. CA: a cancer journal for clinicians. 2022;72(6):524-541.
8. Phạm Hồng Khoa, Mai Tiến Đạt, Dương Minh Long. Đánh giá đột biến gen BRCA1, BRCA2 trên bệnh nhân ung thư vú có nguy cơ cao tại bệnh viện k. Tạp chí Y học Việt Nam. 2022;519(2)
9. Linh Dieu Vuong, To Van Ta, Ha Hoang Chu, Long Van Truong, Quang Ngoc Nguyen. PIK3CA mutation profiling in Vietnamese patients with breast cancer. Meta Gene. 2020;25:100709.