TỶ LỆ NGUYÊN BỘI Ở CÁC PHÔI CÓ BẤT THƯỜNG VỀ ĐỘNG HỌC PHÂN CHIA ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ QUA HỆ THỐNG NUÔI CẤY PHÔI TIME-LAPSE

Diêm Thị Yến1,2,, Nguyễn Thị Huệ Giang2, Lê Thị Quyên2, Đoàn Như Thọ2, Vũ Dương Thanh2, Lương Thị Vân Anh2, Nguyễn Xuân Hợi2, Nguyễn Khang Sơn1
1 Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam
2 Bệnh viện Đức Phúc

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Hệ thống nuôi cấy và theo dõi phôi bằng hình ảnh time-lapse giúp phát hiện các bất thường động học phân chia mà phương pháp truyền thống không ghi nhận được. Tuy nhiên, mối liên quan giữa các bất thường này và tình trạng bộ nhiễm sắc thể của phôi vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu nhằm đánh giá tỷ lệ nguyên bội ở các phôi có bất thường động học phân chia được theo dõi bằng hệ thống time-lapse kết hợp xét nghiệm PGT-A. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện trên 152 bệnh nhân thực hiện IVF có chỉ định PGT-A tại Bệnh viện Đức Phúc từ tháng 01/2023 đến tháng 12/2023. Phôi được nuôi cấy và theo dõi bằng hệ thống time-lapse; ghi nhận các bất thường động học như phân chia trực tiếp, phân chia ngược, đa nhân và không bào. Các phôi nang đạt tiêu chuẩn được làm PGT-A và bệnh nhân được chuyển một phôi nguyên bội ở chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0 với ngưỡng ý nghĩa p<0,05. Kết quả: Trong 583 phôi nang, có 50,4% phôi có động học phân chia bất thường. Tỷ lệ phôi nguyên bội ở nhóm này là 45,2%. Nhóm phôi bào đa nhân có tỷ lệ nguyên bội là 38,2%, thấp hơn có ý nghĩa so với lệch bội (p<0,05). Phân chia ngược ở chu kỳ phân bào đầu tiên có tỷ lệ nguyên bội là 33,8%, cũng thấp hơn có ý nghĩa so với lệch bội (p<0,05). Các bất thường khác như phân chia trực tiếp và không bào không làm tăng tỷ lệ lệch bội. Kết luận: Hệ thống time-lapse cung cấp nhiều thông tin về bất thường động học phân chia nhưng không phải bất thường nào cũng liên quan đến bất thường bộ nhiễm sắc thể. Nhóm phôi bào đa nhân và phân chia ngược ở chu kỳ đầu làm tăng tỷ lệ lệch bội, trong khi phân chia trực tiếp và không bào không ảnh hưởng đáng kể. 

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Meseguer M, Herrero J, Tejera A, Hilligsøe KM, Ramsing NB, Remohí J. The use of morphokinetics as a predictor of embryo implantation. Hum Reprod Oxf Engl. 2011;26(10): 2658-2671. doi:10.1093/humrep/der256
2. De Munck N, Bayram A, Elkhatib I, et al. Marginal differences in preimplantation morphokinetics between conventional IVF and ICSI in patients with preimplantation genetic testing for aneuploidy (PGT-A): A sibling oocyte study. PloS One. 2022;17(4):e0267241. doi:10.1371/journal.pone.0267241
3. Barrie A, Homburg R, McDowell G, Brown J, Kingsland C, Troup S. Examining the efficacy of six published time-lapse imaging embryo selection algorithms to predict implantation to demonstrate the need for the development of specific, in-house morphokinetic selection algorithms. Fertil Steril. 2017;107(3): 613-621. doi:10.1016/j. fertnstert.2016.11.014
4. Lagalla C, Tarozzi N, Sciajno R, et al. Embryos with morphokinetic abnormalities may develop into euploid blastocysts. Reprod Biomed Online. 2017;34(2):137-146. doi:10.1016/j.rbmo. 2016.11.008
5. Lee CI, Chen CH, Huang CC, et al. Embryo morphokinetics is potentially associated with clinical outcomes of single-embryo transfers in preimplantation genetic testing for aneuploidy cycles. Reprod Biomed Online. 2019;39(4):569-579. doi:10.1016/j.rbmo.2019.05.020