PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TRASTUMAB TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU ĐÀ NẴNG

Hồng Thị Minh Anh1, Lê Thị Hà Thu2, Nguyễn Phạm Thanh Nhân2, Trần Thị Thu Trang1, Nguyễn Thị Hồng Hạnh1,
1 Trường Đại học Dược Hà Nội
2 Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Phân tích đặc điểm chỉ định, đường dùng, cách dùng và thời gian điều trị trastuzumab trên bệnh nhân (BN) ung thư vú (UTV). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu bệnh án của các BN UTV được chỉ định trastuzumab tại khoa tuyến vú bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng từ ngày 1/10/2023 đến 30/9/2024. Kết quả: Nghiên cứu thu thập dữ liệu từ 172 BN UTV HER2 dương tính (HER2+), với tổng cộng 2211 chu kỳ điều trị trastuzumab. 94,77% BN có HER2+ tại thời điểm bắt đầu sử dụng trastuzumab. Hóa chất phối hợp chủ yếu là phác đồ chứa taxan không chứa anthracyclin (87,2%). Tỷ lệ BN dùng phác đồ điều trị phối hợp hai thuốc kháng HER2 là 19,77%. Về đường dùng, có 35,47% BN có thay đổi đường dùng ít nhất 1 lần trong quá trình điều trị; 86,52% số chu kỳ trastuzumab được dùng đường tiêm dưới da. Phác đồ trastuzumab mỗi 3 tuần được dùng ở 100% BN; tuy vậy, có 0,83% số chu kỳ có độ dài dưới 18 ngày, và khoảng 13% số chu kỳ kéo dài hơn 24 ngày, còn lại là chu kỳ dao động 18 - 24 ngày. Trung vị thời gian điều trị đạt 12,13 tháng ở nhóm BN giai đoạn sớm và 30,03 tháng ở nhóm BN di căn/tái phát. Kết luận: Đa số BN được chỉ định và sử dụng thuốc theo các khuyến cáo hiện hành. Ngoài ra, những BN chuyển đổi đường dùng hoặc dùng trastuzumab phối hợp anthracyclin nên được giám sát chặt chẽ tác dụng không mong muốn. Cần có thêm các nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân rút ngắn, kéo dài chu kỳ điều trị hoặc không có kết quả xét nghiệm HER2 tại thời điểm khởi đầu dùng trastuzumab.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

Loibl S. & Gianni L. (2017), "HER2-positive breast cancer", Lancet, 389(10087), pp. 2415-2429.
2. Trieu P. D., Mello-Thoms C. & Brennan P. C. (2015), "Female breast cancer in Vietnam: a comparison across Asian specific regions", Cancer Biol Med, 12(3), pp. 238-45.
3. Dowling G. P., Keelan S., Cosgrove N. S., Daly G. R., Giblin K., Toomey S., Hennessy B. T. & Hill A. D. K. (2024), "Receptor Discordance in Metastatic Breast Cancer; a review of clinical and genetic subtype alterations from primary to metastatic disease", Breast Cancer Res Treat, 207(3), pp. 471-476.
4. Slamon D., Eiermann W., Robert N., Pienkowski T., Martin M., Press M., Mackey J., Glaspy J., Chan A., Pawlicki M., Pinter T., Valero V., Liu M. C., Sauter G., von Minckwitz G., Visco F., Bee V., Buyse M., Bendahmane B., Tabah-Fisch I., Lindsay M. A., Riva A., Crown J. & Breast Cancer International Research Group (2011), "Adjuvant trastuzumab in HER2-positive breast cancer", N Engl J Med, 365(14), pp. 1273-83.
5. von Minckwitz G., Procter M., de Azambuja E., Zardavas D., Benyunes M., Viale G., Suter T., Arahmani A., Rouchet N., Clark E., Knott A., Lang I., Levy C., Yardley D. A., Bines J., Gelber R. D., Piccart M., Baselga J., Committee Aphinity Steering & Investigators (2017), "Adjuvant Pertuzumab and Trastuzumab in Early HER2-Positive Breast Cancer", N Engl J Med, 377(2), pp. 122-131.
6. Ismael G., Hegg R., Muehlbauer S., Heinzmann D., Lum B., Kim S. B., Pienkowski T., Lichinitser M., Semiglazov V., Melichar B. & Jackisch C. (2012), "Subcutaneous versus intravenous administration of (neo)adjuvant trastuzumab in patients with HER2-positive, clinical stage I-III breast cancer (HannaH study): a phase 3, open-label, multicentre, randomised trial", Lancet Oncol, 13(9), pp. 869-78.
7. Bộ Y tế (2020), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ung thư vú, Ban hành kèm theo Quyết định số 3128/QĐ-BYT ngày 17 tháng 07 năm 2020.
8. Daniels B., Kiely B. E., Lord S. J., Houssami N., Lu C. Y., Ward R. L. & Pearson S. A. (2018), "Trastuzumab for metastatic breast cancer: Real world outcomes from an Australian whole-of-population cohort (2001-2016)", Breast, 38, pp. 7-13.