ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG VÀ HÌNH THÁI NẤM CỦA BỆNH NẤM DA ĐẦU DO DERMATOPHYTES TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG TỪ THÁNG 12/2024 ĐẾN THÁNG 5/2025

Lê Thị Huệ Anh1,, Đinh Hữu Nghị 1,2, Phạm Quỳnh Hoa2
1 Trường Đại học Y Hà Nội
2 Bệnh viện Da liễu Trung ương

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và hình thái nấm dựa trên phương pháp soi tươi bằng KOH 20% của bệnh nhân nấm da đầu do dermatophytes. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 132 bệnh nhân đến thăm khám và được chẩn đoán nấm da đầu do dermatophytes tại Bệnh viện Da liễu trung ương từ tháng 12/2024 đến tháng 5/2025.  Kết quả: Tỷ lệ mắc nấm da đầu do dermatophytes ở nữ cao hơn nam (54,5% so với 45,5%), phổ biến nhất ở nhóm tuổi dưới 10 tuổi (84,9%). Phần lớn bệnh nhân sinh sống tại nông thôn (72,7%), cao hơn đáng kể so với thành thị (27,3%). Về thói quen sinh hoạt, 42,4% có thói quen sấy hoặc lau khô tóc sau khi gội, trong khi 57,6% thường để tóc ẩm. Tiền sử bệnh ghi nhận 65,9% từng tiếp xúc với chó mèo hoặc vật nuôi, 34,1% có tiền sử nấm da đầu, và 12,9% có tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc có người thân mắc bệnh cùng thời điểm. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi và giới tính của nhóm bệnh nhân (p<0,05). Triệu chứng lâm sàng thường gặp gồm: Vảy da (90,2%), gãy rụng tóc (89,4%) và ngứa (58,3%). Tổn thương da đầu chủ yếu ở dạng rải rác (76,5%), ít gặp hơn là khu trú (23,5%). Kết quả soi tươi nấm bằng KOH 20% cho thấy 65,2% bệnh nhân có sợi nấm và/hoặc bào tử nấm cả trong và ngoài sợi tóc, 18,9% có nấm trong sợi tóc, và 15,9% có nấm ngoài sợi tóc. Kết luận: Nấm da đầu do dermatophytes thường gặp ở trẻ nhỏ, trong đó vảy da, gãy rụng tóc và ngứa là các triệu chứng thường gặp. Chủ yếu là tổn thương rải rác và liên quan nhiều đến yếu tố tiếp xúc với vật nuôi và môi trường sống. Soi tươi nấm bằng KOH 20% là một phương pháp hiệu quả để chẩn đoán bệnh.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Weitzman I, Summerbell RC. The dermatophytes. Clin Microbiol Rev. 1995;8(2): 240-259. doi:10.1128/CMR.8.2.240
2. Keshwania P, Kaur N, Chauhan J, et al. Superficial Dermatophytosis across the World’s Populations: Potential Benefits from Nanocarrier-Based Therapies and Rising Challenges. ACS Omega. 2023;8(35): 31575-31599. doi:10.1021/ acsomega.3c01988
3. Zhi H, Shen H, Zhong Y, et al. Tinea capitis in children: A single-institution retrospective review from 2011 to 2019. Mycoses. 2021;64(5):550-554. doi:10.1111/myc.13243
4. Al Aboud AM, Crane JS. Tinea Capitis. In: StatPearls. StatPearls Publishing; 2024. Accessed July 12, 2024. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/ books/NBK536909/
5. Hennessee IP, Benedict K, Dulski TM, Lipner SR, Gold JAW. Racial disparities, risk factors, and clinical management practices for tinea capitis: An observational cohort study among US children with Medicaid. J Am Acad Dermatol. 2023; 89(6): 1261-1264. doi:10.1016/j.jaad.2023. 07.1025
6. Nagaral G, Patil SV, G.k VG, Jagadevi. Prevalence of tinea facei and tinea capitis in rural population of chitradurga in India. IP Indian Journal of Clinical and Experimental Dermatology. 5(1):30-32.
7. Ion A, Popa LG, Porumb-Andrese E, et al. A Current Diagnostic and Therapeutic Challenge: Tinea Capitis. J Clin Med. 2024;13(2):376. doi:10.3390/jcm13020376
8. Hill RC, Gold JAW, Lipner SR. Comprehensive Review of Tinea Capitis in Adults: Epidemiology, Risk Factors, Clinical Presentations, and Management. J Fungi (Basel). 2024;10(5):357. doi:10.3390/jof10050357
9. Park SK, Park SW, Yun SK, Kim HU, Park J. Tinea capitis in adults: A 18-year retrospective, single-centre study in Korea. Mycoses. 2019;62(7):609-616. doi:10.1111/myc.12916