KẾT QUẢ LÂM SÀNG CỦA CHỈ PTFE VÀ CHỈ SILK TRONG PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI LỆCH NGẦM

Phạm Trần Tuyết Sương1,, Nguyễn Văn Lâm1, Nguyễn Hoàng Nam1, Võ Thành Cảnh1,2, Lý Gia Huy3
1 Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
2 Phòng khám Nha khoa Hoa Sứ Vũng Tàu
3 Trường Đại học Gia Định

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: So sánh hiệu quả lâm sàng giữa chỉ khâu PTFE và chỉ Silk trong phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm, tập trung vào các tiêu chí đau, sưng mặt và lành thương mô mềm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, có nhóm chứng, chia nửa miệng trên 34 bệnh nhân có chỉ định nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch hai bên tại bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ và phòng khám Nha khoa Hoa Sứ trong thời gian nghiên cứu từ tháng 7 năm 2024 đến tháng 5 năm 2025. Kết quả: Tổng cộng có 34 bệnh nhân đã hoàn thành nghiên cứu, độ tuổi trung bình là 25,15 ± 5,71 tuổi, nữ giới chiếm ưu thế (64,7%). Không có sự khác biệt đáng kể giữa các răng mọc khôn lệch ngầm hai bên (p > 0,05). Sau phẫu thuật, mức độ đau giảm dần theo thời gian ở cả hai nhóm. Tại ngày 1, tỷ lệ không đau ở nhóm PTFE là 41,2% so với 35,3% ở nhóm Silk. Đến ngày 7, hầu hết bệnh nhân không còn cảm giác đau, với 94,1% ở nhóm PTFE và 88,2% ở nhóm Silk, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Mức độ sưng mặt được đánh giá qua ba khoảng cách, ghi nhận tăng cao nhất vào ngày 1, giảm dần đến ngày 7 và không còn chênh lệch đáng kể giữa hai nhóm tại mọi thời điểm (p > 0,05), tuy nhiên nhóm PTFE cho xu hướng ít sưng hơn. Về lành thương mô mềm, nhóm chỉ PTFE đạt điểm cao hơn rõ rệt vào ngày 3 (trung bình 4,0 ± 0,9 so với 3,3 ± 0,8 ở nhóm Silk; p < 0,05), cho thấy tốc độ phục hồi mô sớm tốt hơn. Đến ngày 7, cả hai nhóm đều đạt mức lành thương cao, không còn sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05). Kết luận: Chỉ PTFE cho hiệu quả vượt trội trong thúc đẩy lành thương mô mềm sau phẫu thuật nhổ răng khôn so với chỉ Silk, đồng thời kiểm soát tốt đau và sưng, là lựa chọn đáng cân nhắc trong thực hành lâm sàng.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Lê Hùng Cường, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Thị Bích Lý. So sánh lâm sàng chỉ silk và chỉ polypropylene sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm. Tạp chí Y học Việt Nam. 2024;536(1B):311-315.
2. Dilan OZ, Levent C, Volkan K, et al. Evaluation of the effects of silk and polyethylene terephthalate sutures on postoperative complications in impacted lower third molar surgery. J Mater Sci Mater Med. 2023;34(11):51.
3. Dragovic M, Pejovic M, Stepic J, et al. Comparison of four different suture materials in respect to oral wound healing, microbial colonization, tissue reaction and clinical features-randomized clinical study. Clin Oral Investig. 2020;24(4):1527-1541.
4. Farina R, Trombelli L. Wound healing of extraction sockets. J Endodontic Topics. 2011; 25(1):16-43.
5. Faris A, Khalid L, Hashim M, et al. Characteristics of suture materials used in oral surgery: systematic review. Int Dent J. 2022;72(3):278-287.
6. Hamzani Y, Chaushu G. Evaluation of early wound healing scales/indexes in oral surgery: A literature review. Clin Implant Dent Relat Res. 2018 c;20(6):1030-1035.
7. Javed F, Al-Askar M, Almas K, Romanos GE, Al-Hezaimi K. Tissue reactions to various suture materials used in oral surgical interventions. ISRN Dent. 2012;2012:762095.
8. Leknes KN, Røynstrand IT, Selvig KA. Human gingival tissue reactions to silk and expanded polytetrafluoroethylene sutures. J Periodontol. 2005;76(1):34-42.
9. Naykodi TB, Shinde AK. A comparative evaluation of human gingival tissue response to silk & M - polytetrafluoroethylene sutures – a clinicohistological study. J Evolution Med Dent Sci. 2021;10(17):1213-1218.
10. Udeabor SE, Heselich A, Al-Maawi S, Alqahtani AF, Sader R, Ghanaati S. Current knowledge on the healing of the extraction socket: a narrative review. Bioengineering (Basel). 2023;10(10):1145.