ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA ĐIỆN CƠ SỢI ĐƠN TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH NHƯỢC CƠ TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Xây dựng quy trình đo điện cơ sợi đơn (single fiber electromyography - SFEMG) trong chẩn đoán bệnh nhược cơ tại Bệnh viện Nhân dân 115 theo các khuyến nghị quốc tế và đánh giá tính khả thi, hiệu quả và an toàn của quy trình đo SFEMG trong thực hành lâm sàng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu loạt ca trên 5 bệnh nhân (BN) có triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh nhược cơ và nghiệm pháp kích thích thần kinh lặp lại (repetitive nerve stimulation - RNS) với tần số 3Hz có kết quả âm tính, được chỉ định đo SFEMG tại phòng điện cơ khoa Nội Thần kinh Tổng quát, Bệnh viện Nhân dân 115 từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2025. Kết quả: Nghiên cứu ghi nhận kết quả SFEMG dương tính là 80% (4/5). Trong đó, chúng tôi ghi nhận 3 BN thoả tiêu chí giá trị MCD từng cặp riêng lẻ bất thường; 1 BN chỉ thoả tiêu chí giá trị MCD trung bình của 20 cặp là bất thường. Với xét nghiệm định lượng kháng thể kháng thụ thể acetylcholine (acetylcholine recepter - AchR) 2 BN có kết quả dương tính chiếm 40% (2/5), có 2 BN xét nghiệm kháng thể kháng AchR âm tính chiếm 40% (2/5), có 1 BN không thực hiện xét nghiệm chiếm 20% (1/5). Ngoài ra, tất cả các BN đều hoàn tất quy trình, không ghi nhận tai biến nghiêm trọng nào. Kết luận và kiến nghị: Quy trình đo SFEMG chẩn đoán bệnh nhược cơ tại Bệnh viện Nhân dân 115 được cập nhật các khuyến nghị quốc tế và biên soạn phù hợp với quy định của Bộ Y tế. Triển khai quy trình đo SFEMG bước đầu cho thấy tính khả thi, hiệu quả và an toàn, góp phần nâng cao hiệu quả chẩn đoán và điều trị bệnh nhược cơ. Nên chỉ định kỹ thuật SFEMG trên những BN có triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh nhược cơ và nghiệm pháp RNS với tần số 3Hz có kết quả âm tính và kháng thể kháng AchR âm tính trong thực hành lâm sàng.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
nghiệm pháp kích thích thần kinh lặp lại, điện cơ sợi đơn, bệnh nhược cơ.
Tài liệu tham khảo
2. Dương, T. H. N. và cộng sự (2025). Nghiên cứu biến đổi test điện cơ sợi đơn độc và nồng độ kháng thể kháng thụ cảm thể acetylcholine huyết tương ở BN nhược cơ. Tạp chí y dược học quân sự, 50(si1), 67-74. https://doi.org/10.56535/ jmpm.v50si1.1117
3. La Tài Hên, Lê Văn Minh, Nguyễn Thế Luân. (2024). Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trên bệnh nhân nhược cơ tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ và bệnh viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ. Tạp Chí Y học Việt Nam, 541(2). https://doi.org/10.51298/vmj.v541i2.10774
4. Hehir MK, 2nd, Li Y. Diagnosis and Management of Myasthenia Gravis. Continuum (Minneap Minn). 2022;28(6):1615-1642.
5. Paul Maddison, Girija Sadalage, Philip Alexander Ambrose, et al. False-positive acetylcholine receptor antibody results in patients without myasthenia gravis, Journal of Neuroimmunology, Volume 332, 2019, Pages 69-72.
6. Sanders DB, Arimura K, Cui L, et al. Guidelines for single fiber EMG. Clin Neurophysiol. 2019;130(8):1417-1439.
7. Sanders DB, Kouyoumdjian JA, Stålberg EV. Single fiber electromyography and measuring jitter with concentric needle electrodes. Muscle Nerve. 2022;66(2):118-130.
8. Sanders DB, Stålberg EV. AAEM minimonograph #25: single-fiber electromyography. Muscle Nerve. 1996;19(9): 1069-83.
9. Witoonpanich R, Dejthevaporn C, Sriphrapradang A, Pulkes T. Electrophysiological and immunological study in myasthenia gravis: diagnostic sensitivity and correlation. Clin Neurophysiol. 2011;122(9):1873-7.