TỶ LỆ HÚT BUỒNG TỬ CUNG LẦN HAI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN ĐỐI TƯỢNG THAI TRỨNG TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Hút buồng tử cung (BTC) là phương pháp điều trị chính bệnh thai trứng. Trước đây, thủ thuật được thực hiện hai lần để đảm bảo loại bỏ hoàn toàn mô nguyên bào nuôi. Tuy nhiên, các khuyến cáo gần đây không ủng hộ việc hút lần hai thường quy do không làm giảm nguy cơ tiến triển ác tính mà còn tăng biến chứng và chi phí. Trong thực hành lâm sàng, vẫn có một số trường hợp cần can thiệp hút BTC lần hai, nhưng hiện chưa có nhiều nghiên cứu trong nước đánh giá tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến can thiệp này. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ hút BTC lần hai và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân thai trứng tại Bệnh viện Từ Dũ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu báo cáo loạt ca tiến cứu thực hiện tại Bệnh viện Từ Dũ từ 11/2024 đến 05/2025. Đối tượng là các bệnh nhân được chẩn đoán xác định thai trứng, hút nạo BTC lần đầu tại viện và tái khám trong vòng 30 ngày. Kết quả: Sau 30 ngày theo dõi, có 12 bệnh nhân hút BTC lần hai, tỷ suất hút BTC lần hai là 12,77% (KTC 95%: 6,77 – 21,24). Thời gian trung bình giữa hai lần hút nạo BTC là 18,33 ± 8,04 ngày, dao động từ 7 đến 30 ngày. Tỷ suất sự kiện cao nhất được ghi nhận vào thời điểm tái khám sau hút nạo lần đầu 2 tuần. Sau phân tích đa biến, tỷ suất hút BTC lần hai cao hơn trên bệnh nhân có thể tích mô hút nạo lần đầu ≥ 300 mL (OR = 17,40; p = 0,024) và nồng độ β-hCG tái khám lần đầu ≥4303 mUI/mL (OR =98,13; p < 0,001). Kết luận: Tỷ suất diễn tiến hút BTC lần hai là 12,77%. Thể tích mô hút nạo lần đầu ≥ 300 mL và nồng độ β-hCG tái khám lần đầu ≥ 4303 mUI/mL là hai yếu tố liên quan độc lập làm tăng khả năng hút BTC lặp lại.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
: β-hCG, thể tích mô hút nạo, hút buồng tử cung lần hai, thai trứng.
Tài liệu tham khảo
2. Altieri A, Franceschi S, Ferlay J, Smith J, La Vecchia C. Epidemiology and aetiology of gestational trophoblastic diseases. Lancet Oncol. 2003;4(11):670–8.
3. Yamamoto E, Trinh TD, Sekiya Y. The management of hydatidiform mole using prophylactic chemotherapy and hysterectomy for high-risk patients decreased the incidence of gestational trophoblastic neoplasia in Vietnam: a retrospective observational study. Nagoya J Med Sci. 2020;82(2):183–91
4. Royal College of Obstetricians and Gynaecologists. Management of gestational trophoblastic disease: Green-top Guideline No. 38 – June 2020. BJOG. 2021;128(3):e1–27.
5. Nguyễn Thị Kim Mai, Trần Lệ Thủy. Diễn tiến nồng độ β-hCG sau hút nạo thai trứng theo các hình thái lâm sàng của bệnh lý nguyên bào nuôi. Luận án Thạc sĩ Y học. TP. Hồ Chí Minh: Đại học Y Dược TP HCM; 2020.
6. Lê Quang Thanh, Nguyễn Duy Tài. Các yếu tố tiên lượng tân sinh nguyên bào nuôi sau thai trứng tại Bệnh viện Từ Dũ. Luận án Tiến sĩ Y học. TP. Hồ Chí Minh: Đại học Y Dược TP HCM; 2019.
7. Yamamoto E, Nishino K, Niimi K, Watanabe E, Oda Y, Ino K, Kikkawa F. Evaluation of a routine second curettage for hydatidiform mole: a cohort study. Int J Clin Oncol. 2020;25(6):1178–86.