ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HÓA TRỊ PHÁC ĐỒ PACLITAXEL TRONG UNG THƯ VÚ TÁI PHÁT DI CĂN

Thị Dịu Phạm 1,, Thanh Đức Lê 2
1 Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương
2 Bệnh viện K

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư vú tái phát di căn và đánh giá kết quả hóa trị phác đồ paclitaxel trong điều trị nhóm bệnh nhân trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 39 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến vú giai đoạn tái phát di căn điều trị bằng phác đồ paclitaxel đơn trị. Kết quả: Đặc điểm nhóm nghiên cứu: Tuổi trung bình ở thời điểm tái phát, di căn là 56,8 ±9,8 tuổi. Trong 32 bệnh nhân tái phát, thời gian tái phát sau điều trị triệt căn trung bình là 39 tháng. Tỷ lệ đáp ứng chung của phác đồ là 33,3%; trong đó 5,1% đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng 1 phần là 28,2%, bệnh giữ nguyên 46,2%. Tỷ lệ đáp ứng ở nhóm bệnh nhân điều trị phác đồ bước 1 là 40,7%, cao hơn so với nhóm bệnh nhân điều ở bước 2 là 25%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,031. Trung vị thởi gian sống thêm bệnh không tiến triển là 5,6 ± 0,3 tháng. Độc tính của phác đồ thường gặp chủ yếu là độ 1, 2. Các độc tính thường gặp là hạ bạch cầu hạt (33,3%), hạ huyết sắc tố (38,6%), hạ tiểu cầu (10,3%), rụng tóc (38,5%), độc tính thần kinh (51,3%). Kết luận: Phác đồ hóa chất paclitaxel giúp cải thiện tỉ lệ đáp ứng và thời gian sống thêm bệnh không tiến triển cho bệnh nhân ung thư vú tái phát hoặc di căn. Bệnh nhân dung nạp thuốc tương đối tốt do vậy có thể áp dụng trong điều trị trong điều kiện hiện nay ở nước ta hiện nay.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Sung H., Ferlay J., Siegel R.L. và cộng sự. (2021). Global Cancer Statistics 2020: GLOBOCAN Estimates of Incidence and Mortality Worldwide for 36 Cancers in 185 Countries. CA Cancer J Clin, 71(3), 209–249.
2. van Maaren M.C., de Munck L., Strobbe L.J.A. và cộng sự. (2019). Ten-year recurrence rates for breast cancer subtypes in the Netherlands: A large population-based study. Int J Cancer, 144(2), 263–272.
3. Mátrai Z. và Rényi Vámos F. (2014). [Surgical possibilities in the treatment of advanced and locally recurrent breast cancers]. Orv Hetil, 155(37), 1461–1468.
4. Conlin A.K. và Seidman A.D. (2007). Taxanes in breast cancer: an update. Curr Oncol Rep, 9(1), 22–30.
5. Jones S.E., Erban J., Overmoyer B. và cộng sự. (2005). Randomized phase III study of docetaxel compared with paclitaxel in metastatic breast cancer. J Clin Oncol Off J Am Soc Clin Oncol, 23(24), 5542–5551.
6. Sledge G.W., Neuberg D., Bernardo P. và cộng sự. (2003). Phase III trial of doxorubicin, paclitaxel, and the combination of doxorubicin and paclitaxel as front-line chemotherapy for metastatic breast cancer: an intergroup trial (E1193). J Clin Oncol Off J Am Soc Clin Oncol, 21(4), 588–592.
7. Bishop J.F., Dewar J., Toner G.C. và cộng sự. (1999). Initial paclitaxel improves outcome compared with CMFP combination chemotherapy as front-line therapy in untreated metastatic breast cancer. J Clin Oncol Off J Am Soc Clin Oncol, 17(8), 2355–2364.
8. Clark G.M., Sledge G.W., Osborne C.K. và cộng sự. (1987). Survival from first recurrence: relative importance of prognostic factors in 1,015 breast cancer patients. J Clin Oncol Off J Am Soc Clin Oncol, 5(1), 55–61.