MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA RĂNG HÀM LỚN SAU ĐIỀU TRỊ NỘI NHA CÓ CHỈ ĐỊNH PHỤC HỒI BẰNG ENDOCROWN

Trần Thị Thanh Mai 1,, Phạm Thanh Hà 1, Phạm Thu Trang 1, Hà Thu Hương 1
1 Bệnh viện Răng Hàm Mặt TW Hà Nội

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của nhóm bệnh nhân có chỉ định phục hồi thân răng hàm lớn sau điều trị nội nha bằng endocrown. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 31 răng hàm lớn đã được điều trị tủy có chỉ định phục hồi bằng endocrown được đưa vào nghiên cứu can thiệp lâm sàng không có đối chứng. Kết quả nghiên cứu: độ tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân có chỉ định endocrown là 30,29±11,68, tuổi nhỏ nhất của các bệnh nhân là 17, tuổi lớn nhất của các bệnh nhân là 64, đa số các bệnh nhân là nữ (80,6%). Phần lớn các răng được chỉ định endocrown có tình trạng nha chu và kết quả điều trị nội nha tốt, không lung lay, không đổi màu. Kết luận: Endocrown là phục hình phù hợp với hầu hết các răng hàm lớn sau khi được điều trị nội nha.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Tuấn Dương, “Đánh giá kết quả điều trị phục hình thẩm mỹ răng bằng chụp Zirconia”, Thư viện Đại học Y Hà Nội
2. Lê Thị Thùy Linh, “Nhận xét hiệu quả phục hình răng bằng vật liệu sứ Cercon tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội”, Thư viện Đại học Y Hà Nội
3. Bindl and W. H. Mörmann, “Clinical evaluation of adhesively placed cerec endo-crowns after 2 years: preliminary results,” The Journal of Adhesive Dentistry, vol. 1, no. 3, pp. 255–265, 1999
4. G. Biacchi and R. Basting, "Comparison of fracture strength of endocrowns and glass fiber post-retained conventional crowns," Operative dentistry, vol. 37, pp. 130-136, 2012.
5. Thomas, R., Kelly, A., Tagiyeva, N. et al. Comparing endocrown restorations on permanent molars and premolars: a systematic review and meta-analysis. Br Dent J (2020).
6. Y. Zou, J. Bai, and J. Xiang, "Clinical performance of CAD/CAM-fabricated monolithic zirconia endocrowns on molars with extensive coronal loss of substance," Int J Comput Dent, vol. 21, pp. 225-232, 2018