KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LẤY HUYẾT KHỐI CƠ HỌC Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO CẤP DO TẮC NHÁNH M2 ĐỘNG MẠCH NÃO GIỮA

Trần Anh Tuấn1,2,, Nguyễn Thị Huyền1, Đỗ Thị Yến Mai1, Nguyễn Thị Xuân1, Nguyễn Minh Hải1, Trần Tất Hiến3
1 Bệnh viện Bạch Mai
2 Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội
3 Bệnh viện 19-8 Bộ Công An

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị lấy huyết khối cơ học ở bệnh nhân nhồi máu não cấp do tắc nhánh M2 động mạch não giữa tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 38 bệnh nhân nhồi máu não cấp do tắc nhánh M2 động mạch não giữa được can thiệp lấy huyết khối cơ học tại Trung tâm Điện quang Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2018 đến tháng 6/2021. Kết quả: Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 70.5 tuổi, điểm NIHSS trung bình lúc nhập viện là 14.26. Sau can thiệp, 89% tái thông mạch máu tốt (TICI = 2b-3) và 57.89% hồi phục lâm sàng tốt sau 3 tháng. Nhóm bệnh nhân đến viện sớm (trong vòng 3 giờ đầu tính từ thời điểm khởi phát triệu chứng) có tỷ lệ hồi phục lâm sàng tốt sau ba tháng cao gấp hơn 2 lần so với nhóm đến viện sau ba giờ. Điểm mRS tại thời điểm sau ba tháng thấp hơn có ý nghĩa so với thời điểm khi ra viện. Tỷ lệ biến chứng chảy máu nội sọ có triệu chứng, co thắt mạch não và vỡ huyết khối gây tắc mạch xa thấp (2,63-5,26%), không gặp các biến chứng khác như bóc tách hay rách lòng mạch trong quá trình can thiệp, máu tụ, giả phình vùng bẹn. Kết luận: Phương pháp can thiệp lấy huyết khối cơ học điều trị bệnh nhân nhồi máu não cấp do tắc nhánh M2 động mạch não giữa đạt được tỷ lệ cao tái thông mạch máu tốt. Đa số bệnh nhân có điểm NIHSS giảm từ 4 điểm trở lên và hồi phục lâm sàng tốt sau ba tháng. Thời gian đến viện sớm trong vòng ba giờ đầu tính từ thời điểm khởi phát và sự hồi phục tại thời điểm ra viện là các yếu tố ảnh hưởng đến phục hồi lâm sàng tốt sau ba tháng. Ít gặp các biến chứng chảy máu nội sọ có triệu chứng, co thắt mạch não và vỡ huyết khối gây tắc mạch xa.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Bendok B, Naidech AM, Walker MT, Batjer HH, Eds. Hemorrhagic and Ischemic Stroke: Medical, Imaging, Surgical and Interventional Approaches. 1st Edition. Thieme; 2011.
2. Park JS, Kwak HS. Manual aspiration thrombectomy using penumbra catheter in patients with acute m2 occlusion: a single-center analysis. J Korean Neurosurg Soc. 2016;59(4): 352-356. doi:10.3340/jkns.2016.59.4.352
3. Harsany J, Haring J, Hoferica M, et al. Aspiration thrombectomy as the first-line treatment of M2 occlusions. Interv Neuroradiol. 2020;26(4):383-388. doi:10.1177/1591019920925678
4. Coutinho JM, Liebeskind DS, Slater LA, et al. Mechanical Thrombectomy for Isolated M2 Occlusions: A Post Hoc Analysis of the STAR, SWIFT, and SWIFT PRIME Studies. AJNR Am J Neuroradiol. 2016;37(4):667-672. doi:10.3174/ ajnr.A4591
5. Vũ Đăng Lưu, Nguyễn Quang Anh. Kết quả của phương pháp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học stent Solitaire trong điều trị nhồi máu não tối cấp. Tạp Chí Nghiên Cứu Y Học. 2015;(2):33-40.
6. Vũ Anh Nhị, Phạm Nguyên Bình. Đánh giá tính an toàn và hiệu quả phương pháp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học Solitaire ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não. Tạp Chí Y Học TP Hồ Chí Minh. 2014;(18):473-478.
7. Menon BK, Hill MD, Davalos A, et al. Efficacy of endovascular thrombectomy in patients with M2 segment middle cerebral artery occlusions: meta-analysis of data from the HERMES Collaboration. Journal of NeuroInterventional Surgery. 2019;11(11):1065-1069. doi:10.1136/ neurintsurg-2018-014678
8. Bhogal P, Bücke P, Pérez MA, Ganslandt O, Bäzner H, Henkes H. Mechanical Thrombectomy for M2 Occlusions: A Single-Centre Experience. INE. 2017;6(3-4):117-125. doi:10.1159/ 000458161
9. Mokin M, Primiani CT, Ren Z, et al. Endovascular Treatment of Middle Cerebral Artery M2 Occlusion Strokes: Clinical and Procedural Predictors of Outcomes. Neurosurgery. 2017;81(5):795-802. doi:10.1093/neuros/nyx060
10. Hao Y, Zhang Z, Zhang H, et al. Risk of Intracranial Hemorrhage after Endovascular Treatment for Acute Ischemic Stroke: Systematic Review and Meta-Analysis. Interv Neurol. 2017;6(1-2):57-64. doi:10.1159/000454721