KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ XUẤT HUYẾT TIÊU HÓA DO LOÉT DẠ DÀY – TÁ TRÀNG TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC

Dương Trọng Hiền 1, Trương Văn Cường 1,
1 Bệnh viện Việt Đức

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa (XHTH) do loét dạ dày tá tràng. 2. Đánh giá hiệu quả và các yếu tố liên quan của của các phương pháp điều trị xuất huyết tiêu hóa tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả từ T1/2019 đến T12/2022, 278 bệnh nhân được chẩn đoán xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày- ta tràng và được điều trị tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Kết quả: Tuổi trung bình nghiên cứu là 59,8 ± 19,1, chủ yếu gặp ở lứa tuổi 50-79, tỷ lệ nam/nữ là 2,3. Tỷ lệ ngành nghề hay gặp là nhóm lao động trí óc chiếm 42,1%. Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là đại tiện phân đen và đau bụng thượng vị chiếm 79,5%. Có 24,7% số bệnh nhân cần can thiệp có triệu chứng sốc mất máu khi nhập viện. Số bệnh nhân điều trị nội khoa đơn thuần là 66,3%, nội soi can thiệp là 20,8%, can thiệp nội mạch là 8,9%, phẫu thuật là 3,9%.Tỷ lệ cầm máu thành công ban đầu của 2 nhóm nội soi tiêm xơ và kẹp Clip lần lượt là 91,7% và 95,7%. Tỷ lệ chảy máu tái phát của nhóm điều trị nội là 13,5%, nhóm nội soi can thiệp là 10,3%, nhóm nút mạch là 8%, nhóm phẫu thuật là 9,1%. Thời gian tái phát chảy máu thường gặp nhất trước 72 giờ, chiếm 80% ở nhóm điều trị nội và 81,8% ở nhóm can thiệp. Tổn thương hay gặp ở nhóm phẫu thuật là ổ loét forrest IA, IB ( 81,8%), , vị trí ở bờ cong nhỏ (36,4%) và mặt sau hành tá tràng (36,4%), kích thước ổ loét > 2cm (72,7%). Tổn thương mạch máu gặp trong nhóm can thiệp mạch nhiều nhất là động mạch vị tá tràng (56%). Có 4 phương pháp phẫu thuật được tiến hành lần lượt là cắt 2/3 dạ dày (63,6%), khâu cầm máu kèm cắt dây X (27,3%), cắt bỏ ổ loét (9,1%). Tỷ lệ tử vong của các phương pháp lần lượt là: nội soi ( 5,2%), can thiệp mạch (4%), phẫu thuật (9,1%). Biến chứng sau mổ gặp nhiều nhất là rò mỏm tá tràng (27,3%), loét tái phát (18,2%), chảy máu tái phát (9,1%). Thời gian nằm viện trung bình của phương pháp phẫu thuật là 10,67 ngày. Kết luận: + XHTH do loét DD-TT là biến chứng nặng và chiếm tỷ lệ cao nhất trong các biến chứng của bệnh lý loét DD-TT. Đặc biệt là những trường hợp loét ở bờ cong nhỏ hoặc mặt sau hành tá tràng thường gây ra sốc mất máu. + Điều trị hiện nay vẫn phần lớn là nội khoa, với các trường hợp chảy máu hoạt động thì phương pháp nội soi cầm máu bằng tiêm xơ hoặc kẹp clip đều đạt hiệu quả cao. + Tổn thương hay gặp ở nhóm phải nút mạch hoặc phẫu thuật thường là ổ loét đang chảy máu, kích thước lớn, vị trí hay gặp ở bờ cong nhỏ hoặc mặt sau tá tràng. + Phẫu thuật trong XHTH có tỷ lệ tử vong cao và nhiều biến chứng nặng, nhiều nhất là rò mỏm tá tràng, thời gian nằm viện cũng kéo dài hơn.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Mille M, Engelhardt T, “Stier A. Bleeding Duodenal Ulcer: Strategies in High-Risk Ulcers.” Visc Med. 2021;37(1):52-62. doi:10.1159/000513689.
2. Loffroy R, Guiu B, D’Athis P, et al. “Arterial Embolotherapy for Endoscopically Unmanageable Acute Gastroduodenal Hemorrhage: Predictors of Early Rebleeding”. Clinical Gastroenterology and Hepatology. 2009;7(5):515-523.
3. Nguyễn Thị Thu Trang, Phan Quốc Hùng, Nguyễn Ngọc Tuấn (2012), "Giá trị tiên lượng của thang điểm Blatchford trên bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa trên cấp", Tạp chí Y học thực hành, Số 852+853, tr. 192- 195.
4. Nguyễn Ngọc Tuấn, Tạ văn Ngọc Đức, Châu Quốc Sử (2012), "Kết quả kẹp clip cầm máu trong xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng", Y học TP. Hồ Chí Minh, 16(11), tr. 137- 146.
5. Đào Văn Long (2016), "Xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng", Bệnh học nội khoa, Nhà xuất bản Y học, tr. 38- 45.
6. Lê Thanh Dũng, Trương Bích An, Thân Văn Sỹ (2021), “Đánh giá hiệu quả của phương pháp can thiệp mạch trong điều trị chảy máu tá tràng”, Tạp chí Y học Việt Nam, 324(11), tr.136-140
7. Thái Nguyên Hưng, Phan Văn Linh (2023), “Điều trị xuất huyết tiêu hóa nặng do loét tá tràng kissing ulcer thủng vào động mạch vị tá tràng và loét dạ dày và loét dạ dày- tá tràng”, Tạp chí Y học Việt Nam, 524(3), tr.5