ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỬ DỤNG VẠT TẠI CHỖ ĐIỀU TRỊ KHUYẾT HỔNG PHẦN MỀM SAU CẮT BỎ KHỐI U VÙNG MẶT TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sử dụng vạt tại chỗ điều trị khuyết hổng phần mềm sau cắt bỏ khối u vùng mặt tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu gồm 34 bệnh nhân có tổn thương khuyết hổng phần mềm vùng mặt sau cắt bỏ khối u được tạo hình bằng vạt tại chỗ tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An từ tháng 01/2017 đến tháng 11/ 2022. Kết quả: Kết quả cho thấy sau phẫu thuật 7 ngày: 91,18% bệnh nhân có vạt sống hoàn toàn; 8,82% vạt bị thiểu dưỡng nhẹ. 100% bệnh nhân được che phủ khuyết hổng vùng mặt sau phẫu thuật. 97,06% bệnh nhân liền ngay lần đầu phẫu thuật; 94,12% bệnh nhân không có biến chứng và 94,12% bệnh nhân được đánh giá có kết quả tốt sau phẫu thuật. Đánh giá kết quả phẫu thuật 3 tháng cho thấy: 94,12% bệnh nhân có kết quả đồng màu giữa vùng phẫu thuật và da các vùng khác; 100% bệnh nhân có vạt đủ dày và liền sẹo tốt và 94,12% bệnh nhân có kết quả tốt sau phẫu thuật 3 tháng. Kết luận: Phẫu thuật sử dụng vạt tại chỗ điều trị khuyết hổng phần mềm vùng mặt sau căt bỏ khối u mang lại hiệu quả cao cả về mắt chức năng, hình thể và chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
: Chuyển vạt tại chỗ, bệnh nhân khuyết hổng phần mềm vùng mặt, kết quả điều trị.
Tài liệu tham khảo
2. Bạch Minh Tiến (2002), Luận văn thạc sỹ y học, ”đánh giá kết quả sử dụng Vạt trục mạch và vạt rãnh mũi má trong điều trị tổn khuyết phần mềm vùng mũi”, Đại Học Y Hà Nội, Hà Nội.
3. Glanz K., Schoenfeld E.R., và Steffen A. (2010). A randomized trial of tailored skin cancer prevention messages for adults: Project SCAPE. Am J Public Health, 100(4), 735–741.
4. Bùi Văn Cường (2016), Luận văn thạc sỹ y học, “Đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình tổn thương khuyết đầu mũi, cánh mũi”, Đại Học Y Hà Nội, Hà Nội.
5. Kim Y.J., Cho H.H., Kim S.O. và cộng sự. (2015). Reconstruction algorithm for nasal basal cell carcinoma with skin involvement only: analysis of 221 cases repaired by minor surgery. Clinical and Experimental Dermatology, 40 (7), 728–734.
6. Abbas O.L. và Borman H. (2012). Basal Cell Carcinoma: A Single-Center Experience. ISRN Dermatol, 1–6.
7. Kauvar A.N.B., Cronin T., Roenigk R. và cộng sự. (2015). Consensus for nonmelanoma skin cancer treatment: basal cell carcinoma, including a cost analysis of treatment methods. Dermatol Surg, 41 (5), 550–571
8. Nguyễn Quang Rực (2019), Luận văn thạc sỹ y học, “Đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình khuyết phần mềm kích thước vừa và nhỏ sau cắt bỏ ung thư da tế bào đáy vùng mặt”, Đại Học Y Hà Nội, Hà Nội.
9. Phạm Cao Kiêm (2006). Đánh giá các phương pháp tạo hình bằng tổ chức tại chỗ trong điều trị ung thư thế bào đáy ở đầu mặt cổ theo phẫu thuật Mohs.
10. Bozan A., Gode S., Kaya I. và cộng sự. (2015). Long-term Follow-up of Positive Surgical Margins in Basal Cell Carcinoma of the Face. Dermatol Surg, 41 (7), 761–767