MỘT SỐ DẤU ẤN HBEAG, ANTI-HBE, HBCRAG, HBV-DNA Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN CHƯA ĐIỀU TRỊ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

Trần Thị Diễm Trang1,, Trần Ngọc Dung1, Dương Thị Loan1, Trương Đan Kha2, Huỳnh Thị Huỳnh Mai2, Đoàn Phù Tường Vy2, Trần Hoàng Trắng2, Võ Thành Trí3
1 Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
2 Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần Thơ
3 Bệnh viện Quốc tế Phương Châu

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Một số dấu ấn huyết thanh đã được đánh giá có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh và có ý nghĩa trong chẩn đoán, theo dõi điều trị bệnh nhân viêm gan B mạn. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát một số dấu ấn huyết thanh HBeAg, anti-HBe, nồng độ HBcrAg, HBV-DNA và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân viêm gan B mạn chưa điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần Thơ năm 2023-2025. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 100 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm gan siêu vi B mạn chưa điều trị đến khám tại Phòng khám tiêu hóa, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần Thơ từ tháng 07/2024-02/2025. Bệnh nhân được tiến hành xét nghiệm định tính HBeAg, anti-HBe, định lượng HBcrAg, đo tải lượng vi rút HBV-DNA, thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 25.0. Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân có HBeAg(+) là 26,0%, anti-HBe(+) là 74,0%, HBcrAg(+) là 80,0% và HBV-DNA(+) là 97,0%. Độ tuổi trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 48,44 ±13,1 tuổi, nam chiếm ưu thế hơn (51,0%) so với nữ (49,0%) và phân bố chủ yếu ở vùng nông thôn (76,0%). Ở nhóm HBeAg(+) có giá trị trung bình của hoạt độ ALT là 83,5±115,7 U/L, AST là  62,9±63,5 U/L, nồng độ trung bình của HBcrAg và HBV-DNA lần lượt là 7,45±1,45 logU/mL và 5,89±2,47 log10IU/mL. Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân viêm gan B mạn thể HBeAg(+) là 26,0%, HBeAg (-) là 74,0%. Nhóm bệnh nhân HBeAg(+) có độ tuổi thấp hơn so với HBeAg(-) với OR=3,37 (p=0,01), chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng HBeAg với giới tính, nơi cư trú và hoạt độ AST, ALT. Nồng độ trung bình của HBcrAg và HBV-DNA ở nhóm bệnh nhân viêm gan B mạn có HBeAg(+) lần lượt là 7,45±1,45 logU/mL; 5,89±2,47 log10IU/mL cao hơn ở nhóm bệnh nhân có HBeAg(-) sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Cui F, Blach S, Manzengo Mingiedi C, Gonzalez M. A, Sabry Alaama A, Mozalevskis A, et al (2023), "Global reporting of progress towards elimination of hepatitis B and hepatitis C", Lancet Gastroenterol Hepatol, 8(4), pp.332-342.
2. Lê Đình Vĩnh Phúc (2020), “Nghiên cứu một số đặc điểm kháng nguyên liên quan đến lõi vi rút viêm gan B tại trung tâm MEDIC thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam, 4(32), tr.80-85.
3. Nguyễn Thị Cẩm Hồng, Đỗ Hoàng Long, Lê Thị Hoàng Mỹ, Trịnh Thị Hồng Của & Phan Hoàng Đạt (2022), “Nghiên cứu các dấu ấn huyết thanh nhiễm HBV, mối tương quan giữa nồng độ HBsAg và tải lượng vi rút ở bệnh nhân viêm gan B mạn chưa điều trị tại Bệnh viện trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2021-2022, Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, 51, 205-212.
4. Lê Văn Nam (2021), “Nghiên cứu mối tương quan giữa tải lượng HBV DNA và hoạt độ enzym ALT ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính”, Tạp chí Y học Việt Nam, 2(500), tr.95-99.
5. Liu D, Xu T, Shi B, Lu W, et al (2020). “Clinical relevance of the in situ assay for HBV DNA: a cross-sectional study in patients with chronic hepatitis B”, J Clin Pathol, 73(12, pp.813-818.
6. Yang N. Feng T, Zhou T, Li Z, et al (2018), “Relationship betwween serum quantitative HBsAg and HBV DNA levels in chronic hepatitis B patients”, J Med Virol, 90(7), pp.1240-1245.
7. Mai Thị Bích Chi (2022), “Khảo sát nồng độ HBcrAg huyết thanh ở bệnh nhân viêm gan B mạn tại bệnh viện đại học y dược TPHCM”, Trường Đại học Y Dược TP.HCM, tr.350-381.