MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ LO ÂU, TRẦM CẢM, STRESS VÀ CÁC CHỈ SỐ T3, FT4, TSH, TRAB TRÊN BỆNH NHÂN BASEDOW ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN NỘI TIẾT TRUNG ƯƠNG

Đinh Thị Ngọc1,, Nguyễn Hoàng Thanh 2, Đỗ Trung Quân2, Vũ Qúy Dương3
1 Bệnh viện Nội tiết Trung ương
2 Trường Đại học Y Hà Nội
3 Công ty Cổ phần Y Dược Quốc tế Mỹ Đức

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa các chỉ số T3, FT4, TSH, TRAb và các rối loạn tâm lý (lo âu, trầm cảm, stress) trên bệnh nhân Basedow. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 351 bệnh nhân được chẩn đoán Basedow. Các chỉ số sinh hóa T3, FT4, TSH, TRAb được định lượng. Mức độ lo âu, trầm cảm, stress được đánh giá bằng thang điểm DASS-21. Phân tích hồi quy logistic đa biến được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng độc lập đến nguy cơ các rối loạn tâm lý, nghiên cứu hồi quy logistic đã được thực hiện trên ba nhóm cỡ mẫu khác nhau: Mô hình 1: n=351 (chỉ có FT4, TSH); mô hình 2: n=244 (thiếu T3); mô hình 3: n=164 (có đầy đủ T3, FT4, TSH, TRAb). Kết quả: Mô hình đa biến cho thấy: Trong nhóm n=164, TRAb có mối liên quan ý nghĩa thống kê với nguy cơ stress (p=0.015, OR=1.041) và trầm cảm (p=0.014, OR=1.041). FT4, TSH, T3 không cho thấy ảnh hưởng đối với lo âu hoặc stress. Trong nhóm n=244, TRAb tiếp tục có xu hướng liên quan với lo âu và trầm cảm, nhưng không đạt ý nghĩa thống kê. Trong nhóm n=351, FT4 liên quan ý nghĩa với nguy cơ lo âu và stress, cho thấy FT4 có thể là yếu tố ảnh hưởng yếu và chỉ biểu hiện khi có cỡ mẫu đủ lớn. Kết luận: TRAb là yếu tố ảnh hưởng ổn định nhất đến nguy cơ stress và trầm cảm trong các mô hình hồi quy. FT4 có thể là yếu tố để dự báo nguy cơ lo âu và stress nhưng cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn. Các chỉ số tuyến giáp có thể đóng vai trò trong việc sàng lọc nguy cơ tâm lý trên bệnh nhân Basedow và nên được tích hợp trong đánh giá toàn diện.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Lê Huy Liệu. Bệnh Basedow. In: Bách Khoa Thư Bệnh Học. Vol I. Trung tâm quốc gia biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam; 1991:28-30.
2. Jameson JL, Mandel SJ, Weetman AP. Disorders of the Thyroid Gland. In: Jameson JL, ed. Harrison’s Endocrinology, 4e. McGraw-Hill Education; 2017. Accessed July 3, 2024. accessbiomedicalscience.mhmedical.com/content.aspx?aid=1141274506
3. Bộ Y tế (last). Bệnh tuyến giáp. In: Hướng Dẫn Chẩn Đoán và Điều Trị Bệnh Nội Tiết- Chuyển Hóa. ; 2015:51-70.
4. Chen HH, Yeh SY, Lin CL, Chang SN, Kao CH. Increased depression, diabetes and diabetic complications in Graves’ disease patients in Asia. QJM: An International Journal of Medicine. 2014;107(9):727-733. doi:10.1093/qjmed/hcu069
5. Ross DS, Burch HB, Cooper DS, et al. 2016 American Thyroid Association Guidelines for Diagnosis and Management of Hyperthyroidism and Other Causes of Thyrotoxicosis. Thyroid®. 2016;26(10):1343-1421. doi:10.1089/thy.2016.0229
6. Fukao A, Takamatsu J, Arishima T, et al. Graves’ disease and mental disorders. Journal of Clinical & Translational Endocrinology. 2020;19: 100207. doi:10.1016/j.jcte.2019.100207
7. Nguyễn Thị Hoài Thu, Nguyễn Lân Việt. Bệnh Lý Tuyến Giáp. Nhà xuất bản Y học; 2012.
8. Trần Ngọc Lương, Phạm Thị Thu Hà. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân Basedow tại bệnh viện Nội Tiết Trung Ương. tạp chí y học Việt Nam. 2018;470:112-117.
9. Smith TJ, Hegedüs L. Graves’ Disease. Longo DL, ed. N Engl J Med. 2016;375(16):1552-1565. doi:10.1056/NEJMra1510030
10. Campbell M, Jahanshad N, Mufford M, et al. Overlap in genetic risk for cross-disorder vulnerability to mental disorders and genetic risk for altered subcortical brain volumes. Journal of Affective Disorders. 2021;282:740-756. doi:10. 1016/j.jad.2020.12.062