MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN NHẬN THỨC Ở BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH SAU ĐỘT QUỴ

Nguyễn Hồng Quân1, Phạm Cẩm Diệu Linh1,, Nguyễn Văn Hướng2, Lê Đình Uy1, Vũ Nguyên Bình1, Trần Thị Hương1, Nguyễn Thị Phương Nguyệt1, Tống Huyền Trang1, Dương Thị Huyền Trang1
1 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
2 Trường Đại học Y Hà Nội

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm rối loạn nhận thức và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân động kinh sau đột quỵ. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng là các bệnh nhân được chẩn đoán xác định động kinh sau đột quỵ, được quản lí và điều trị ngoại trú, nội trú tại khoa Nội Thần Kinh-Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và Trung tâm Thần kinh - Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 08/2024 đến tháng 07/2025. Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, chọn mẫu thuận tiện. Kết quả: Trong vòng 08/2024 đến 07/2025, có 52 bệnh nhân bị động kinh sau đột quỵ trong đó nam giới chiếm 69,2%, tuổi trung bình 63,6±16,4 (16-86), đột quỵ nhồi máu 63,5%. Bệnh nhân có rối loạn nhận thức chiếm 67,3% trong đó rối loạn thần kinh nhận thức nhẹ 46,2% và rối loạn thần kinh nhận thức chủ yếu 21,1%. Có 59,6% bị rối loạn trí nhớ từ, 57,7% bị rối loạn trí nhờ thị giác – không gian và rối loạn trí nhớ hình chiếm 44,2%. Bệnh nhân có rối loạn ngôn ngữ chiếm tỷ lệ 34,6%, tỷ lệ có rối loạn chú ý và rối loạn chức năng điều hành là 26,9%, 19,2%. Tìm thấy mối liên quan giữa tuổi, đột quỵ chảy máu, tổn thượng vị trí thủy trán, thủy thái dương và ≥ 2 vùng tổn thương với tình trạng rối loạn nhận thức. Kết luận: Rối loạn nhận thức ở bệnh nhân động kinh sau đột quỵ chiếm tỷ lệ cao (67,3%), chiếm tỷ lệ cao nhất là rối loạn trí nhớ từ (59,6%) và rối loạn trí nhớ thị giác không gian – thời gian (57,7%). Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, bệnh nhân đột quỵ chảy máu, có tổn thương thùy trán, thùy thái dương và ≥ 2 vùng tổn thương có nguy cơ rối loạn nhận thức cao hơn những bệnh nhân khác do đó cần lưu ý đánh giá tình trạng rối loạn nhận thức trên những đối tượng này.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

Ghosh S, Sinha JK, Khan T, et al. Pharmacological and Therapeutic Approaches in the Treatment of Epilepsy. Biomedicines. Apr 25 2021;9(5)doi:10.3390/biomedicines9050470
2. Tuan NA, Cuong le Q, Allebeck P, Chuc NT, Persson HE, Tomson T. The incidence of epilepsy in a rural district of Vietnam: a community-based epidemiologic study. Epilepsia. Dec 2010;51(12): 2377-83. doi:10.1111/j.1528-1167.2010.02699.x
3. van Tuijl JH, van Raak EPM, van Oostenbrugge RJ, Aldenkamp AP, Rouhl RPW. Cognition and quality of life in patients with poststroke epilepsy: A case-control study. Epilepsy Behav. Mar 2020;104(Pt B):106444. doi:10.1016/j.yebeh.2019.106444
4. Harvey PD. Domains of cognition and their assessment Dialogues Clin Neurosci. Sep 2019;21(3): 227-237. doi:10.31887/DCNS. 2019.21.3/pharvey
5. Lê Đình An NHQ. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến cơn động kinh sớm sau đột quỵ não trên lều. Tạp chí y dược lâm sàng 108. 2023;7/2023(18):7-14.
6. Bladin CF, Alexandrov AV, Bellavance A, et al. Seizures after stroke: a prospective multicenter study. Arch Neurol. Nov 2000;57(11): 1617-22. doi:10.1001/archneur.57.11.1617
7. Arntz R, Rutten-Jacobs L, Maaijwee N, et al. Post-stroke epilepsy in young adults: a long-term follow-up study. PLoS One. 2013;8(2):e55498. doi:10.1371/journal.pone.0055498
8. Sun JH, Tan L, Yu JT. Post-stroke cognitive impairment: epidemiology, mechanisms and management. 2014;(2305-5839 (Print))
9. Rost NA-O, Brodtmann AA-O, Pase MP, et al. Post-Stroke Cognitive Impairment and Dementia. (1524-4571 (Electronic))
10. Ferro JM, Pinto F. Poststroke epilepsy: epidemiology, pathophysiology and management. 2004;(1170-229X (Print))