SỰ PHÙ HỢP CỦA VẠT DA CÂN THƯỢNG ĐÒN TRONG TẠO HÌNH KHUYẾT THIẾU ỐNG HỌNG SAU PHẪU THUẬT CẮT HẠ HỌNG THANH QUẢN TOÀN PHẦN

Phạm Văn Hữu1,2,, Nguyễn Quang Trung1,2, Ngô Xuân Khoa1, Ngô Duy Thịnh1,2, Phạm Thùy Linh2, Đỗ Minh Khang1
1 Trường Đại học Y Hà Nội
2 Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm giải phẫu của vạt da cân thượng đòn (supraclavicular artery island flap – SCAIF) và tính phù hợp của vạt trong tái tạo ống họng sau phẫu thuật cắt hạ họng – thanh quản toàn phần. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm hai phần: (1) phẫu tích 15 xác tươi đông lạnh (10 vạt) để khảo sát nguyên ủy, đường kính, chiều dài động mạch thượng đòn và phạm vi vùng cấp máu; (2) chuỗi lâm sàng 30 bệnh nhân ung thư hạ họng giai đoạn tiến triển được cắt hạ họng – thanh quản toàn phần, nạo vét hạch cổ hai bên và tạo hình ống họng bằng SCAIF. Thu thập giai đoạn T, N; kích thước khuyết hổng; kích thước vạt; thời gian phẫu thuật; biến chứng; thời gian nằm viện; phân tích mô tả. Kết quả: Trên 15 xác (30 vạt), vùng cấp máu trung bình 17.3×9.2 cm; động mạch thượng đòn xuất phát từ động mạch cổ ngang 100%  với đường kính 3.1 (2.9-3.4) mm; chiều dài trung bình là 4.3 (3.7-5.3) cm. Trên 30 bệnh nhân được phẫu thuật, chiều dài khuyết hổng là 8,7 (7-11) cm; chiều dài vạt thu được là 18.4 (16-20) cm, trong đó đảo da để tạo hình có kích thước trung bình là 8.7×7,3 cm. Thời gian thu hoạch vạt 29.5 (20-40) phút trong tổng thời gian phẫu thuật trung bình là 184 phút; không ghi nhận trường hợp nào rò, nhiễm trùng, tử vong. Thời gian nằm viện trung bình là 13 ngày. Kết luận: Vạt thượng đòn có nền tảng giải phẫu ổn định, dễ thu hoạch, cho thời gian phẫu thuật ngắn và biến chứng thấp; là lựa chọn phù hợp để tái tạo ống họng sau cắt hạ họng – thanh quản toàn phần, đặc biệt trong bối cảnh hạn chế nguồn lực vi phẫu.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

Clark JR, Gilbert R, Irish J, Brown D, Neligan P, Gullane PJ. Morbidity After Flap Reconstruction of Hypopharyngeal Defects. The Laryngoscope. 2006;116(2): 173-181. doi:10. 1097/01.mlg.0000191459.40059.fd
2. Reiter M, Baumeister P. Reconstruction of laryngopharyngectomy defects: Comparison between the supraclavicular artery island flap, the radial forearm flap, and the anterolateral thigh flap. Microsurgery. 2019;39(4): 310-315. doi: 10.1002/micr.30406
3. Kokot N, Mazhar K, Reder LS, Peng GL, Sinha UK. The Supraclavicular Artery Island Flap in Head and Neck Reconstruction: Applications and Limitations. JAMA Otolaryngol Head Neck Surg. 2013; 139(11): 1247. doi:10.1001/jamaoto. 2013.5057
4. Emerick KS, Herr MA, Deschler DG. Supraclavicular flap reconstruction following total laryngectomy. The Laryngoscope. 2014;124(8): 1777-1782. doi:10.1002/lary.24530
5. Vinh VQ, Van Anh T, Ogawa R, Hyakusoku H. Anatomical and Clinical Studies of the Supraclavicular Flap: Analysis of 103 Flaps Used to Reconstruct Neck Scar Contractures: Plastic and Reconstructive Surgery. 2009;123(5):1471-1480. doi:10.1097/PRS.0b013e3181a205ba
6. Coleman JJ, Searles JM, Hester TR, et al. Ten years experience with the free jejunal autograft. The American Journal of Surgery. 1987;154(4): 394-398. doi:10.1016/0002-9610(89)90011-1
7. Granzow JW, Suliman A, Roostaeian J, Perry A, Boyd JB. Supraclavicular Artery Island Flap (SCAIF) vs Free Fasciocutaneous Flaps for Head and Neck Reconstruction. Otolaryngol-head neck surg. 2013;148(6): 941-948. doi:10.1177/ 0194599813476670
8. Pallua N, Kim BS. Pre-expanded Supraclavicular Artery Perforator Flap. Clinics in Plastic Surgery. 2017;44(1):49-63. doi:10.1016/j.cps.2016.08.005