THỰC TRẠNG NHIỄM E. COLI VÀ COLIFORM TRONG SẢN PHẨM CỦA MỘT SỐ CƠ SỞ SẢN XUẤT NƯỚC UỐNG ĐÓNG CHAI TẠI HÀ NỘI NĂM 2020
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Mô tả thực trạng nhiễm E.coli và coliform trong sản phẩm của một số cơ sở sản xuất nước uống đóng chai tại Hà Nội năm 2020. Đối tượng: Các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ sản xuất nước uống đóng chai, mẫu nước uống đóng chai do cơ sở sản xuất. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Kết quả và kết luận: Sản phẩm nước uống đóng chai ở Hà Nội năm 2020 có kết quả sản phẩm đạt là 67,0% và không đạt là 33,0%. Tỉ lệ nước uống đóng chai nhiễm Coliform là 33,0% và nhiễm E.coli là 28,7%. Cần thường xuyên thanh tra, kiểm tra định kỳ và hậu kiểm đối với các cơ sở thực hiện tự công bố sản phẩm và xử lý nghiêm đối với những trường hợp phát hiện có vi phạm các điều kiện về an toàn thực phẩm.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
E.coli, coliform, nước uống đóng chai
Tài liệu tham khảo
2. Cristobal C, Marcela S, Celida M, Bruce K. (2008), Drinking water microbiological survey of the Northwestern State of Sinaloa, Mexico, Journal of Water and Health, 6(1), pp. 125-129
3. Trần Linh Thước (2006), Phương pháp phân tích Vi sinh vật trong nước, thực phẩm và mỹ phẩm. Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản giáo dục, tr.6.
4. Lê Văn Khởi, Phạm Thị Tâm (2018) Nghiên cứu tình hình nhiễm E. coli và coliform trong nước uống đóng chai và các yếu tố liên quan tại các cơ sở sản xuất nước uống đóng chai tỉnh Hậu Giang năm 2018, Tạp chí Y tế Công cộng, no.21 - ISSN.2345-1210
5. Ðặng Xuân Bình (2010), Xác định chỉ tiêu vi khuẩn nhiễm trong nước uống đóng chai khu vực thành phố Thái Nguyên. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 72(10): 94-99, tr 94
6. Nguyễn Vãn Ðạt (2014), Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất nước uống đóng chai tại tỉnh Bình Dương năm 2013. Tạp chí Y học TP.HCM, tập 18 Phụ bản số 6, tr 552
7. Cao Thị Diễm Thúy (2016), Tỷ lệ nhiễm vi sinh vật nước uống đóng chai và một số yếu tố liên quan đến điều kiện bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm tại cở sở nước uống đóng chai tỉnh Bến Tre. Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm, Tập 12 – Số 6(1) – Tháng 11 năm 2016, tr. 361