NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG TRÊN NGƯỜI CAO TUỔI BỊ LOÃNG XƯƠNG

Trương Trí Khoa1, Nguyễn Thanh Huân1,, Nguyễn Đức Công2
1 Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
2 Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, X quang và các yếu tố liên quan của gãy xương đốt sống trên người cao tuổi bị loãng xương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 296 bệnh nhân ≥60 tuổi bị loãng xương điều trị tại khoa Nội cơ xương khớp, khoa Ngoại thần kinh và phòng khám Nội cơ xương khớp, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ tháng 8 năm 2022 đến tháng 5 năm 2023. Đối tượng nghiên cứu được ghi nhận triệu chứng lâm sàng, đặc điểm trên X quang cột sống ngực – thắt lưng, kết quả mật độ xương cùng các yếu tố liên quan. Kết quả: Đối tượng có gãy xương đốt sống thường gặp đau lưng (71,8% so với 11,8%, p <0,001) với đa số có điểm VAS 4 – 6 (46,8%), mất chiều cao (61,8% so với 2,2%, p <0,001), gù lưng (66,4% so với 2,7%, p <0,001) so với nhóm không gãy xương đốt sống. Trên X quang, số lượng đốt sống bị gãy là 2 (1 – 2), vị trí thân sống thường gãy nhất là từ T12 đến L2, thường gặp kiểu gãy hình chêm (74,5%) và gãy mức độ nặng (82,7%). Khi thực hiện hồi quy logistic đa biến, các yếu tố liên quan đến gãy xương đốt sống ở người cao tuổi bị loãng xương là tuổi (OR 1,23; KTC 95% 1,06 – 1,45; p <0,011), hoạt động thể lực (OR 0,35; KTC 95% 0,14 – 0,86; p <0,025), thoái hóa khớp (OR 0,25; KTC 95% 0,07 – 0,92; p <0,037), té ngã (OR 3,47; KTC 95% 1,34 – 9,58; p <0,013), chiều cao trước đây (OR 1,21; KTC 95% 1,13 – 1,32; p <0,001), mật độ xương ở cổ xương đùi (OR 0,00; KTC 95% 0,00 – 0,03; p <0,001). Kết luận: triệu chứng đau lưng, mất chiều cao, gù lưng có thể giúp tầm soát gãy xương đốt sống trên người cao tuổi bị loãng xương. Tuổi, hoạt động thể lực, thoái hóa khớp, té ngã, chiều cao trước đây, mật độ xương thấp ở cổ xương đùi là các yếu tố tiềm năng để thiết lập mô hình chẩn đoán gãy xương đốt sống.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Cui L, Chen L, Xia W, et al. Vertebral fracture in postmenopausal Chinese women: a population-based study. Osteoporos Int. 2017;28(9):2583-2590.
2. Fink HA, Milavetz DL, Palermo L, et al. What proportion of incident radiographic vertebral deformities is clinically diagnosed and vice versa? J Bone Miner Res. 2005;20(7):1216-1222.
3. Hà Văn Lĩnh, Nguyễn Lê Bảo Tiến, Phan Minh Trung, Võ Văn Thanh. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân lún thân đốt sống ngực, thắt lưng do loãng xương. Tạp chí Y học Việt Nam. 2021;500(1):84-86.
4. Hồ Phạm Thục Lan, Mai Duy Linh, Đỗ Thị Mộng Hoàng, et al. Chẩn đoán gãy xương đốt sống (phần 2). Thời Sự Y học. 2011;63.
5. Sawicki P, Talalaj M, Zycinska K, et al. Characteristics of osteoporotic vertebral fractures in association with symptomatic status in postmenopausal women - a retrospective study of a single centre in Poland. Ann Agric Environ Med. 2021;28(4):654-658.
6. Noriega D, Marcia S, Theumann N, et al. A prospective, international, randomized, noninferiority study comparing an implantable titanium vertebral augmentation device versus balloon kyphoplasty in the reduction of vertebral compression fractures (SAKOS study). Spine J. 2019;19(11):1782-1795.
7. Kamimura M, Nakamura Y, Sugino N, et al. Associations of self-reported height loss and kyphosis with vertebral fractures in Japanese women 60 years and older: a cross-sectional survey. Sci Rep. 2016;6:29199.
8. Nakano M, Nakamura Y, Suzuki T, Kobayashi T, Takahashi J, Shiraki M. Implications of historical height loss for prevalent vertebral fracture, spinal osteoarthritis, and gastroesophageal reflux disease. Sci Rep. 2020;10(1):19036.