KHẢO SÁT GIÁ TRỊ HUYẾT SẮC TỐ HỒNG CẦU LƯỚI Ở TRẺ EM THIẾU MÁU THIẾU SẮT VÀ THALASSEMIA

Võ Thành Trí1,, Trần Thị Ngọc Huyền2, Lê Thị Hoàng Mỹ2, Nguyễn Thị Kiều Trang3, Trần Thị Trúc Linh1, Nguyễn Minh Hiệp1, Nguyễn Thị Thuý Hồng1, Lê Trung Tín1
1 Bệnh viện Quốc tế Phương Châu
2 Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
3 Trung tâm Y tế huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Thiếu máu là vấn đề sức khoẻ phổ biến ở trẻ em. Nguyên nhân chủ yếu gây thiếu máu là do thiếu hụt sắt. Ở một số nước với tỷ lệ mắc thalassemia cao, nguyên nhân chủ yếu gây thiếu máu không chỉ do thiếu hụt sắt mà còn do thalassemia. Giá trị huyết sắc tố hồng cầu lưới (CHr) đo trực tiếp từ tế bào hồng cầu non có giá trị hữu ích trong chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt nhưng còn một số hạn chế trong chẩn đoán thalassemia. Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm huyết học và khảo sát giá trị huyết sắc tố hồng cầu lưới ở trẻ em thiếu máu thiếu sắt và thalassemia. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 87 trẻ em chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt và thalassemia tại bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ và bệnh viện Quốc tế Phương Châu. Kết quả: Tổng số 87 trẻ em tham gia nghiên cứu với tuổi trung vị là 2,0 tuổi. Nam chiếm 64,4% và nữ chiếm 35,6%. CHr trong nhóm thiếu máu thiếu sắt là 23,4±3,7 pg thấp hơn đáng kể so với nhóm thalassemia là 25,0±2,4 pg (p<0,05). CHr có AUC là 0,647 trong chẩn đoán phân biệt thiếu máu thiếu sắt và thalassemia, điểm cắt tối ưu CHr là 21,7 pg, độ nhạy là 95,5% và độ đặc hiệu là 67,5%. Kết luận: Sử dụng điểm cắt CHr <21,7 pg có thể chẩn đoán phân biệt thiếu máu thiếu sắt và thalassemia ở trẻ em.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Thị Thu Cúc (2018). Thực trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em dưới 5 tuổi tại phòng khám dinh dưỡng bệnh viện Nhi Trung ương. Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Triệu Vân, Ngô Mạnh Quân, Ngô Huy Minh, Nguyễn Ngọc Dũng, Lê Xuân Hải, Dương Quốc Chính, Nguyễn Anh Trí, Bạch Quốc Khánh (2021). “Tổng quan thalassemia, thực trạng, nguy cơ và giải pháp kiểm soát bệnh thalassemia ở Việt Nam”. Tạp chí Y học Việt Nam, 502(Chuyên đề), tr.3-16.
3. Nguyễn Thị Mai Hương (2023). “Tiếp cận chẩn đoán thiếu máu ở trẻ em”. Tạp chí Nhi khoa, 16(5), tr91-98.
4. Trần Thị Ánh Loan, Trần Thành Vinh, Hồ Trọng Toàn, Phó Phước Sương, Nguyễn Ngọc Vân Anh và cộng sự (2019). “Nghiên cứu các thông số của hồng cầu và hồng cầu lưới trên bệnh nhân thiếu máu do thiếu sắt và thalassemia”. Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 23(6), tr.343-348.
5. Lê Thị Hoàng Mỹ, Võ Thành Trí, Trần Thị Thuỳ Dung, Nguyễn Thị Kiều Trang (2024). “Đặc điểm kiểu gen và kiểu hình huyết học bệnh hemoglobin H không mất đoạn”. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, 71, tr166-173.
6. Kadegasem P., Songdej D., Lertthammakiat S., Chuansumrit A., Paisooksantivatana K., Mahaklan L., Wongwerawattanakoon P., Tangbubpha N., Sirachainan N. (2019). “Reticulocyte hemoglobin equivalent in a thalassemia-prevalent area”. Pediatr Int, 61(3), pp.240-245. https://doi.org/10.1111/ped.13775.
7. Kılıç M., Özpınar A., Serteser M., Kilercik M., Serdar M. (2022). “The effect of reticulocyte hemoglobin content on the diagnosis of iron deficiency anemia: A meta-analysis study”. Journal of medical biochemistry, 41(1), pp.1-13. https://doi.org/10.5937/jomb0-31435.
8. Yeter D.K., Konca A. (2020). "Reticulocyte hemoglobin equivalent in differential diagnosis of iron deficiency, iron deficiency anemia and β thalassemia trait in children." Turkish Journal of Biochemistry, 46(1), pp. 45-51. https://doi.org/10.1515/tjb-2020-0277.