ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VỚI PHÂN LOẠI MÔ BỆNH HỌC THAI TRỨNG

Võ Thị Ngọc Diễm1,, Lưu Thị Thu Thảo1, Đặng Hoàng Minh1, Dương Ngọc Thiên Hương1, Hoàng Lê Quỳnh Anh2
1 Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
2 Bệnh viện Hùng Vương

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Thai trứng là một thai kỳ bất thường, phổ biến nhất ở Đông Nam Á với tỷ lệ mắc 2-13/1000. Thai trứng có thể diễn tiến thành tân sinh nguyên bào nuôi, với tỷ lệ tử vong cao. Hiện nay tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào kết hợp và đối chiếu đặc điểm lâm sàng và phân loại mô bệnh học thai trứng, để hiểu rõ hơn về vai trò chẩn đoán của các yếu tố nguy cơ, siêu âm, nồng độ β-hCG trong chẩn đoán thai trứng. Mục tiêu: Đối chiếu một số đặc điểm lâm sàng với phân loại mô bệnh học thai trứng. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu cắt ngang mô tả, gồm 88 bệnh phẩm thai trứng tại Bệnh viện Hùng Vương từ tháng 07/2022 đến tháng 03/2024. Quy trình nghiên cứu bao gồm đánh giá các đặc điểm lâm sàng và phân loại mô bệnh học thai trứng. Số liệu được phân tích bằng phần mềm STATA 14.0. Kết quả: Nghiên cứu trên 88 trường hợp bệnh nhân thai trứng cho thấy tuổi mẹ trung bình là 32,3 tuổi, độ lệch chuẩn 8,8 tuổi. Tuổi thai trung bình khi chẩn đoán bệnh là 8,5 tuần, độ lệch chuẩn 2,5 tuần. Với 29,6% bệnh nhân có tiền sử sẩy thai tự nhiên, 3,4% có tiền sử thai trứng. Nồng độ β-hCG trung bình trước hút nạo là 143 032 mIU/mL. Thời gian β-hCG trở về âm tính trung bình là 8 tuần. Siêu âm chẩn đoán trước hút nạo phát hiện 64,8% trường hợp. Phân loại mô bệnh học cho thấy 15 trường hợp thai trứng toàn phần giai đoạn sớm (17%), 54 trường hợp thai trứng toàn phần (61,4%), và 19 trường hợp thai trứng bán phần (21,6%). Kết luận: Nghiên cứu cung cấp một cái nhìn tổng quan về các yếu tố lâm sàng liên quan đến bệnh lý thai trứng, bao gồm độ tuổi mẹ, tuổi thai, tiền sử sản khoa, nồng độ β-hCG, thời gian β-hCG trở về âm tính và kết quả siêu âm.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Ngan HY, Seckl MJ, Berkowitz RS, et al. Update on the diagnosis and management of gestational trophoblastic disease. International Journal of Gynecology & Obstetrics. 2018;143:79-85.
2. Sun SY, Melamed A, Joseph NT, et al. Clinical presentation of complete hydatidiform mole and partial hydatidiform mole at a regional trophoblastic disease center in the United States over the past 2 decades. International Journal of Gynecologic Cancer. 2016;26(2)
3. Joneborg U, Folkvaljon Y, Papadogiannakis N, Lambe M, Marions L. Temporal trends in incidence and outcome of hydatidiform mole: a retrospective cohort study. Acta Oncologica. 2018;57(8):1094-1099.
4. John R, Lurain M. Gestational trophoblastic disease I: epidemiology, pathology, clinical presentation and diagnosis of gestational trophoblastic disease, and management of hydatidiform mole. Am J Obstet Gynecol. 2010;9
5. Gockley AA, Melamed A, Joseph NT, et al. The effect of adolescence and advanced maternal age on the incidence of complete and partial molar pregnancy. Gynecologic oncology. 2016;140(3):470-473.
6. Joneborg U, Marions L. Current clinical features of complete and partial hydatidiform mole in Sweden. J Reprod Med. 2014;59(1-2):51-5.
7. Fowler D, Lindsay I, Seckl M, Sebire N. Routine pre‐evacuation ultrasound diagnosis of hydatidiform mole: experience of more than 1000 cases from a regional referral center. Ultrasound in obstetrics & gynecology. 2006;27(1):56-60.