ĐÁNH GIÁ SỰ BIẾN ĐỔI NHỊP TIM, HUYẾT ÁP TRÊN PHI CÔNG TRONG THỬ NGHIỆM BUỒNG GIẢM ÁP MÔ PHỎNG ĐỘ CAO 5000M

Nguyễn Hồng Phong1, Lường Công Thức2, Nguyễn Huy Thông2, Nguyễn Văn Điền3, Nguyễn Thanh Xuân2,
1 Viện Y học Phòng không - Không quân
2 Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y
3 Học viện Quân y

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của hạ áp mô phỏng (độ cao 5000 m) đến các chỉ số mạch và huyết áp của phi công (PC). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 75 phi công đang hoạt động bay thỏa tiêu chuẩn chọn. Phi công được khám sức khỏe định kỳ tại Viện Y học Phòng không – Không quân từ tháng 5/2024 đến 4/2025. Mỗi phi công được đo chỉ số mạch (nhịp tim) liên tục, huyết áp (tâm thu và tâm trương) trước, trong và sau khi thử nghiệm trong buồng giảm áp ở độ cao tương đương 5000 m. Dữ liệu được xử lý thống kê (phần mềm SPSS 22.0) với kiểm định ANOVA đo lặp để so sánh biến đổi liên quan đến độ cao. Kết quả: Tuổi trung bình phi công là 31,4 ± 5,9 tuổi, BMI 22,9 ± 2,4 kg/m². Nhịp tim trung bình đo trước thử nghiệm là 80,01 ± 11,32 chu kỳ/phút, tăng dần lên 91,23 ± 10,43 chu kỳ/phút ở độ cao 5000 m (p<0,001). Chỉ số mạch cao nhất ở phút 15 ở độ cao 5000 m (93,52 ± 9,46 chu kỳ/phút) có ý nghĩa khác biệt so với chỉ số khi mới lên và cuối bài thử nghiệm (p<0,05). Huyết áp tâm thu trung bình tăng từ 120,40 ± 7,48 mmHg (trước thử nghiệm) lên 131,68 ± 8,71 mmHg (ở 5000 m) và trở về 122,12 ± 8,75 mmHg sau khi kết thúc (p<0,05). Huyết áp tâm trương cũng tăng từ 74,94 ± 7,06 lên 81,49 ± 7,13 mmHg ở độ cao và giảm xuống 76,11 ± 7,96 mmHg sau nghiệm pháp (p<0,05). Kết luận: Độ cao mô phỏng 5000 m gây tăng nhịp tim và huyết áp có ý nghĩa thống kê ở phi công, nhưng mức tăng không lớn. Kết quả phản ánh tình trạng sức khỏe tim mạch tốt và khả năng thích nghi tốt của phi công Việt Nam trong điều kiện hạ áp.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. GBD 2019. Diseases and Injuries Collaborators. Global burden of 369 diseases and injuries in 204 countries and territories, 1990-2019: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2019. Lancet. 2020; 396 (10258): 1204 - 1222. doi:10.1016/S0140-6736(20)30925-9.
2. Mensah GA, Roth GA, Fuster V. The Global Burden of Cardiovascular Diseases and Risk Factors: 2020 and Beyond. J Am Coll Cardiol. 2019; 74(20): 2529-2532. doi:10.1016/j.jacc. 2019.10.009.
3. Grósz A, Tóth E, Péter I. A 10-year follow-up of ischemic heart disease risk factors in military pilots. Mil Med. 2007;172(2): 214-219. doi:10. 7205/milmed.172.2.214.
4. Siagian, M. Hypertension in Indonesian Air Force Pilots. Med J Indones. 2012; 21: 38-43.
5. Nguyễn, H. Đăng, Nguyễn, M. P., & Nguyễn, O. O. Nghiên cứu nồng độ Osteoprotegerin huyết tương ở phi công quân sự Việt Nam. Tạp Chí Y học Việt Nam. 2023; 529(1B). https://doi.org/ 10.51298/vmj.v529i1B.6403.
6. Varis N, Leinonen A, Parkkola K, Leino TK. Hyperventilation and Hypoxia Hangover During Normobaric Hypoxia Training in Hawk Simulator. Front Physiol. 2022;13:942249. doi:10.3389/fphys.2022.942249.
7. Castro-Herrera, J.M., et al., Heart rate variability as a predictor of hypobaric hypoxia in aircraft pilots. Latin American Journal of Hypertension, Vol. 16 No. 4, 2021). 16(4).
8. Urch B, Silverman F, Corey P, et al. Acute blood pressure responses in healthy adults during controlled air pollution exposures. Environ Health Perspect. 2005;113(8): 1052-1055. doi:10.1289/ ehp.7785.
9. Netzer NC, Jaekel H, Popp R, et al. Oxidative Stress Reaction to Hypobaric-Hyperoxic Civilian Flight Conditions. Biomolecules. 2024;14(4):481. doi:10.3390/biom14040481.