MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH VÀNG DA TĂNG BILIRUBIN GIÁN TIẾP TẠI BỆNH VIỆN VINMEC TIMES CITY NĂM 2022

Qúach Thị Hiền1, Phan Thị Vinh1, Nguyễn Thị Hường1, Nguyễn Thị Ngân1, Trần Thị Dương1, Quản Thanh Nga2,
1 Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Times City
2 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh vàng da tăng bilirubin gián tiếp. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả trên 157 trẻ sơ sinh được điều trị tại Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Times City đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu. Kết quả: Tuổi trung bình của các bà mẹ là: 29,8±5,05 (tuổi). Tỷ lệ trẻ có kết quả chăm sóc tốt là 90,4%; 9,6% có kết quả chăm sóc ở mức chưa tốt. Tỷ lệ trẻ có kết quả chăm sóc chưa tốt ở nhóm trẻ tuổi thai <37 tuần cao hơn nhóm ≥ 37 tuần. Nhóm có cân nặng dưới 2,5kg cao hơn nhóm trên 2,5kg. Nhóm có mẹ có tiền sử bệnh cao hơn nhóm không có bệnh. Nhóm trẻ có bệnh lý kèm theo có tỷ lệ kết quả chăm sóc ở mức chưa tốt cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không có bệnh kèm theo. Tỷ lệ trẻ có kết quả chăm sóc chưa tốt ở nhóm trẻ kết hợp chiều đèn và truyền dịch cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chiếu đèn đơn thuần. Các sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh vàng da tăng bilirubin gián tiếp đạt kết quả chăm sóc tốt tại là cao (90,4%). Tuy nhiên, 9,6% trường hợp có kết quả chăm sóc chưa tốt, tập trung chủ yếu ở nhóm trẻ có tuổi thai < 37 tuần, cân nặng < 2,5kg, và có mẹ có tiền sử bệnh. Đặc biệt, trẻ có bệnh lý kèm theo có nguy cơ chăm sóc chưa tốt cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Ngoài ra, kết quả chăm sóc chưa tốt cũng phổ biến hơn ở nhóm trẻ được điều trị phối hợp chiếu đèn và truyền dịch so với chiếu đèn đơn thuần (p < 0,05).

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. P. Đ. N. Diệp, "Đánh giá hiệu quả điều trị vàng da tăng Bilirubin gián tiếp ở trẻ sơ sinh bằng chiếu đèn Halogen tại khoa sơ sinh bệnh viện Saint- Paul," Chuyên khoa II, Nhi, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội, 2003.
2. N. T. Q. Nga, "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng theo căn nguyên gây vàng da tăng bilirubin gián tiếp ở trẻ sơ sinh," Bác sỹ nội trú, Nhi, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội, 2005.
3. P. R. Hannon, S. K. Willis, and S. C. Scrimshaw, "Persistence of maternal concerns surrounding neonatal jaundice: an exploratory study," (in eng), Arch Pediatr Adolesc Med, vol. 155, no. 12, pp. 1357-63, Dec 2001.
4. M. Adib-Hajbaghery and Z. Khosrojerdi, "Knowledge of mothers about post-discharge newborn care," (in eng), مجله علوم پرستاری و مامایی, vol. 4, no. 2, pp. 33-41, 2017.
5. B. Rodrigo and G. Cooray, "The knowledge, attitude & behaviour on neonatal jaundice of postnatal mothers in Provincial General Hospital, Badulla," (in eng), J Sri Lanka Journal of Child Health, vol. 40, no. 4, 2011.
6. O. O. Goodman, O. A. Kehinde, B. A. Odugbemi, T. T. Femi-Adebayo, and O. O. Odusanya, "Neonatal Jaundice: Knowledge, Attitude and practices of mothers in Mosan-Okunola community, Lagos, Nigeria," (in eng), Niger Postgrad Med J, vol. 22, no. 3, pp. 158-63, Jul-Sep 2015.
7. H. Boskabadi, F. Rakhshanizadeh, and M. Zakerihamidi, "Evaluation of Maternal Risk Factors in Neonatal Hyperbilirubinemia," (in eng), Arch Iran Med, vol. 23, no. 2, pp. 128-140, Feb 1 2020.
8. Y. Yu, J. Choi, M. H. Lee, K. Kim, H. M. Ryu, and H. W. Han, "Maternal disease factors associated with neonatal jaundice: a case-control study," (in eng), BMC Pregnancy Childbirth, vol. 22, no. 1, p. 247, Mar 24 2022.