KHẢO SÁT SỰ NHẠY CẢM CỦA CÁC CHỦNG ASPERGILLUS SPP. VỚI THUỐC KHÁNG NẤM IN VITRO BẰNG KỸ THUẬT VI PHA LOÃNG VÀ E-TEST
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Nhiễm nấm Aspergillus là một thách thức y tế nghiêm trọng, đặc biệt trên các bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Sự gia tăng đề kháng thuốc kháng nấm, nhất là nhóm azole, đòi hỏi việc giám sát liên tục và đánh giá các phương pháp xét nghiệm độ nhạy cảm. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát sự phân bố các loài Aspergillus và mức độ nhạy cảm với thuốc kháng nấm của các chủng phân lập tại Bệnh viện Chợ Rẫy, đồng thời so sánh sự tương đồng giữa hai kỹ thuật kháng nấm đồ vi pha loãng và E-test. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 49 chủng Aspergillus spp. phân lập từ các bệnh phẩm đường hô hấp tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2024 đến tháng 8/2025. Các chủng nấm được xác định độ nhạy cảm với các thuốc kháng nấm (amphotericin B, caspofungin, voriconazole, itraconazole, posaconazole) bằng hai phương pháp song song: vi pha loãng Sensititre và E-test. Kết quả: Trong tổng số 49 chủng nghiên cứu, Aspergillus fumigatus là loài phân lập phổ biến nhất (31/49, 62,0%), tiếp theo là A. flavus (12/49, 24,0%), A. niger (5/49, 10,0%) và A. terreus (1/49, 2,0%). Ghi nhận 2 chủng A. fumigatus (6,5%) kháng voriconazole và 5 chủng (16,1%) không thuộc kiểu hoang dại (non-wild-type) với itraconazole theo phương pháp vi pha loãng. Với amphotericin B, phát hiện 1 chủng A. fumigatus và 2 chủng A. niger không thuộc kiểu hoang dại. Các loài khác, bao gồm A. flavus và A. terreus, đều nhạy cảm với các thuốc kháng nấm được khảo sát. Tỉ lệ tương đồng phân loại (nhạy/ kháng hoặc WT/non-WT) giữa hai phương pháp Sensititre và E-test nhìn chung cao. Tuy nhiên, vẫn ghi nhận một số khác biệt đáng chú ý, đặc biệt với voriconazole và itraconazole ở các chủng có MIC gần ngưỡng. Riêng posaconazole không áp dụng cho A. fumigatus và các chủng còn lại đều thuộc chủng hoang dại. Kết luận: A. fumigatus là tác nhân hàng đầu trong các chủng Aspergillus phân lập được. Tỉ lệ kháng azole tuy chưa cao nhưng đã xuất hiện, cho thấy sự cần thiết của việc giám sát thường quy. Kỹ thuật E-test cho thấy sự tương đồng tốt với phương pháp vi pha loãng tham chiếu, có thể là một công cụ sàng lọc hiệu quả trong thực hành lâm sàng, nhưng các kết quả gần ngưỡng đề kháng cần được xác nhận lại bằng phương pháp chuẩn.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Aspergillus, thuốc kháng nấm, vi pha loãng, E-test, voriconazole, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tài liệu tham khảo
2. Phạm Ngọc Minh. Ký sinh trùng Y học, Tập 2. Nhà xuất bản Y học; 2023.
3. Verweij PE, Chowdhary A, Melchers WJG, Meis JF. Azole resistance in Aspergillus fumigatus: can we retain the clinical use of mold-active antifungal azoles? Clinical Infectious Diseases. 2016;62(3):362-368.
4. Duong T‐MN, Le T‐V, Tran K‐LH, et al. Azole‐resistant Aspergillus fumigatus is highly prevalent in the environment of Vietnam, with marked variability by land use type. Environmental Microbiology. 2021;23(12):7632-7642.
5. Clinical and Laboratory Standards Institute (CLSI). Reference method for broth dilution antifungal susceptibility testing of filamentous fungi. CLSI document M38. Wayne, PA: Clinical and Laboratory Standards Institute; 2017.
6. Melhem MSC, Coelho VC, Fonseca CA, et al. Evaluation of the sensititre YeastOne and Etest in comparison with CLSI M38-A2 for antifungal susceptibility testing... against Aspergillus fumigatus and other species... Pharmaceutics. 2022;14(10):2161.
7. Perfect JR. The impact of the host on fungal infections. Am J Med. 2012;125(1 Suppl):S39–S51.
8. Van de Veerdonk FL, et al. Host and fungal factors in the pathogenesis of aspergillosis. Virulence. 2017;8(2):316–322.
9. Denning DW, et al. Azole resistance in Aspergillus fumigatus: a global public health challenge. Journal of Global Antimicrobial Resistance. 2015;3(3):178–187.