ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT ĐẶT VAN AHMED KẾT HỢP TIÊM BEVACIZUMAB TRONG ĐIỀU TRỊ GLÔCÔM TÂN MẠCH
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và độ an toàn của phẫu thuật đặt van Ahmed kết hợp tiêm Bevacizumab nội nhãn trong điều trị glôcôm tân mạch, xác định tỉ lệ thành công, tỉ lệ biến chứng và tỉ lệ can thiệp sau phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả dọc, hồi cứu kết hợp tiến cứu được thực hiện trên theo dõi sau phẫu thuật 32 bệnh nhân glôcôm tân mạch điều trị bằng phẫu thuật đặt van Ahmed sau khi tiêm bevacizumab nội nhãn. Các bệnh nhân được theo dõi tối thiểu 12 tháng. Dữ liệu được thu thập bao gồm đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, các chỉ số nhãn áp, thị lực, biến chứng và các can thiệp cần thiết sau phẫu thuật. Kết quả: Tỉ lệ thành công là 71,9% sau 6 tháng và 68,8% sau 12 tháng. Bệnh lý tại mắt và bệnh võng mạc đái tháo đường liên quan nghịch với thành công ở 6 tháng và 1 năm (r lần lượt –0,555 đến –0,363; p≤0,013). Dính góc chu biên (PAS) ảnh hưởng kết quả ở mốc 1 năm. Thời gian từ mũi bevacizumab cuối đến lúc phẫu thuật càng ngắn, kết quả càng tốt. Số mũi tiêm trước mổ liên quan nghịch, rõ nhất ở 1 năm (p=0,007), trong khi số mũi tiêm sau mổ liên quan thuận trong 6 tháng đầu (p=0,035). Biến chứng thường gặp: xuất huyết tiền phòng 12,5%, xẹp tiền phòng 6,3%, lộ ônag 3,1%; 18,8% mắt cần can thiệp bổ sung. Pha tăng nhãn áp xuất hiện ở 17 mắt (53,1%). Can thiệp bổ sung gồm rửa máu tiền phòng 6,3%, tái tạo tiền phòng 3,1%, phủ lại ống silicon 3,1 và cắt dịch kính 6,3%. Kết luận: Phẫu thuật đặt van Ahmed kết hợp tiêm bevacizumab nội nhãn cho thấy hiệu quả và độ an toàn trong điều trị glôcôm tân mạch. Kết quả bị ảnh hưởng bất lợi bởi bệnh lý tại mắt, bệnh võng mạc đái tháo đường, dính góc chu biên và số mũi tiêm trước phẫu thuật nhiều; khoảng cách ngắn hơn từ lần tiêm cuối đến phẫu thuật và số mũi tiêm sau phẫu thuật mang lại kết quả tốt hơn. Các biến chứng thường gặp nhưng có thể kiểm soát gồm xuất huyết tiền phòng, xẹp tiền phòng, lộ ống.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Glôcôm tân mạch; van Ahmed; bevacizumab; phẫu thuật chống tăng nhãn áp; chất chống tăng sinh tân mạch
Tài liệu tham khảo
2. Mishra, C.Meyer và J. J. (2024), "Neovascular Glaucoma", StatPearls, StatPearls Publishing LLC, Treasure Island (FL).
3. S. Dubey và các cộng sự. (2017), "Hypertensive Phase Following Silicon Plate Ahmed Glaucoma Valve Implantation", J Glaucoma. 26(3), tr. 124.
4. J. Y. Kang và các cộng sự. (2014), "The effect of intravitreal bevacizumab injection before Ahmed valve implantation in patients with neovascular glaucoma", Int Ophthalmol. 34(4), tr. 793-9.
5. W. Kiddee, T. Tantisarasart và B. Wangsupadilok (2012), "Neovascular glaucoma: a retrospective review of 5-year experience in Songklanagarind Hospital", J Med Assoc Thai. 95 Suppl 4, tr. S36-42.
6. S. Nakatake và các cộng sự. (2014), "Hyphema is a risk factor for failure of trabeculectomy in neovascular glaucoma: a retrospective analysis", BMC Ophthalmol. 14, tr. 55.
7. P. A. Netland, K. Ishida và J. W. Boyle (2010), "The Ahmed Glaucoma Valve in patients with and without neovascular glaucoma", J Glaucoma. 19(9), tr. 581-6.
8. L. C. Olmos và R. K. Lee (2011), "Medical and surgical treatment of neovascular glaucoma", Int Ophthalmol Clin. 51(3), tr. 27-36.
9. L. Shi, J. Yang và J. Lin (2019), "What is the impact of intravitreal injection of conbercept on neovascular glaucoma patients: a prospective, interventional case series study", BMC Ophthalmol. 19(1), tr. 128.
10. R. Tailor, M. T. Kinsella và J. C. Clarke (2018), "Long-Term Outcome of Intravitreal Bevacizumab Followed by Ahmed Valve Implantation in the Management of Neovascular Glaucoma", Semin Ophthalmol. 33(5), tr. 606-612