NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ Ở NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ S.I.S CẦN THƠ NĂM 2024

Lê Lâm Tuyết Duy1, Tô Văn Tân1, Nguyễn Thị Diệu Hằng1, Trần Thị Thúy Vân1, Bùi Trần Minh Nguyệt1, Nguyễn Trân Trân2,
1 Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần Thơ
2 Trường Đại học Y Dược Cần Thơ

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Hội chứng chuyển hóa (HCCH) là một nhóm các rối loạn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch, đái tháo đường và tử vong sớm. Tuy nhiên, nghiên cứu về HCCH ở nhân viên y tế (NVYT) còn hạn chế. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm HCCH và một số yếu tố nguy cơ của NVYT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 459 NVYT khám sức khỏe định kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần Thơ từ tháng 04 đến tháng 11 năm 2024. Kết quả: Tỉ lệ mắc HCCH theo IDF 2009 là 12,9%, với nam và nữ lần lượt là 16,7% và 10,9%. Tỉ lệ mắc 3 thành tố là 66,1% trong đó, thành tố HDL giảm chiếm tỉ lệ cao nhất với 32%. Các yếu tố như hoạt động thể lực thấp, uống rượu bia mức có hại/nguy cơ, tiền sử tăng huyết áp và thừa cân/béo phì liên có quan chặt chẽ đến khả năng mắc hội chứng chuyển hóa. Khả năng mắc HCCH tăng gấp 26 lần (KTC 95%: 1,58 - 426,84) ở người có 4 yếu tố nguy cơ so với người không có yếu tố nguy cơ nào. Kết luận: Tỉ lệ mắc HCCH ở NVYT là khá cao. Việc tầm soát và can thiệp sớm các yếu tố nguy cơ là cần thiết để giảm thiểu tỉ lệ mắc HCCH nhằm nâng cao sức khỏe và kéo dài tuổi thọ cho NVYT.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Đặng Thị Phương Duyên, Nguyễn Anh Khoa (2022), “Đặc điểm nhân trắc học, dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến tỉ lệ chỉ số khối cơ thể của nhân viên y tế tại Đắk Lắk”, Tạp chí Y học Việt Nam, 516(1), tr.242-246.
2. Trần Thừa Nguyên, Trần Hữu Dàng (2023), “Tỉ lệ hội chứng chuyển hóa của người dân Việt Nam”, Tạp chí Nội tiết và Đái tháo đường, số 60, tr.5-16.
3. Nguyễn Thị Nga, Trần Thị Phúc Nguyệt (2017), “Tình trạng mắc hội chứng chuyển hóa và một số yếu tố liên quan của cán bộ viên chức tại trường Đại học Y dược Hà Nội”, Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm, 13 (2), tr.12-18.
4. Nguyễn Lê Ngọc Vân, Nguyễn Văn Tập (2015), “Tỉ lệ hiện mắc hội chứng chuyển hóa và các yếu tố liên quan của nhân viên Bệnh viện Từ Dũ”, Tạp chí phụ sản, 13(2B), tr.79-84.
5. Kunyahamu MS, Daud A, Jusoh N. (2021), “Obesity among Health-Care Workers: Which Occupations Are at Higher Risk of Being Obese?”, Int J Environ Res Public Health, 18(8):4381.
6. Niazi E, Saraei M, Aminian O, Izadi N. (2019), “Frequency of metabolic syndrome and its associated factors in health care workers”, Diabetes Metab Syndr, 13(1), P.338-342.
7. Park DY, Lee O, Lee YH, Lee CG, Kim YS (2024), “Relationship between Change in Physical Activity and Risk of Metabolic Syndrome: A Prospective Cohort Study”, JOMES, 33, p.121-132.
8. Rahmawati, N.D., Andriani, H., Wirawan, F. et al (2024), “Body mass index as a dominant risk factor for metabolic syndrome among indonesian adults: a 6-year prospective cohort study of non-communicable diseases”, BMC Nutrition, 10(43), p.1-13.