TÌNH HÌNH KHÁNG KHÁNG SINH CỦA PSEUDOMONAS AERUGINOSA PHÂN LẬP ĐƯỢC TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ HẢI PHÒNG NĂM 2022

Lưu Thị Nga1, Lê Văn Hưng2,3, Vũ Huy Lượng2,3, Nguyễn Thị Hà Vinh2,3, Lê Huyền My3, Phạm Quỳnh Hoa3, Nguyễn Hoàng Việt2, Lê Huy Hoàng4, Nguyễn Văn An5,6, Lê Nguyễn Minh Hoa6, Lê Hạ Long Hải2,3,
1 Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hải Phòng-Vĩnh Bảo
2 Đại học Y Hà Nội
3 Bệnh viện Da liễu Trung ương
4 Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương
5 Học viện Quân Y
6 Bệnh viện Quân y 103

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Pseudomonas aeruginosa là một thách thức lớn trong điều trị những bệnh nhiễm trùng, cùng với đó tình trạng kháng kháng sinh trầm trọng của vi khuẩn này cũng khiến việc điều trị gặp nhiều trở ngại. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm xác định tỷ lệ nhiễm và mô hình đề kháng kháng sinh của các chủng P. aeruginosa phân lập được tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hải Phòng năm 2022. Kết quả: Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm của P. aeruginosa là 2,0% (87/4457), trong đó phần lớn các chủng P. aeruginosa được phân lập từ bệnh phẩm hô hấp và nước tiểu. Vi khuẩn có tỷ lệ nhiễm cao ở nhóm người bệnh trên 60 tuổi, dưới 20 tuổi và người bệnh điều trị ở các khoa hệ Ngoại. Các chủng P. aeruginosa có tỷ lệ đề kháng thấp nhất với piperacillin-tazobactam 11,5% và cao nhất với ciprofloxacin 35,6%, levofloxacin 35,6%. Với các kháng sinh khác, tỷ lệ đề kháng của vi khuẩn dao động từ 15-28%: meropenem 27,6%, amikacin 26,4%, gentamicin 25,3%, imipenem 21,8%, tobramycin 19,5%, ceftazidime 17,2% và cefepime 15,0%. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm P. aeruginosa có mối liên quan với các yếu tố độ tuổi, bệnh phẩm và khoa/phòng điều trị. Các kháng sinh piperacillin-tazobactam, cefepime, ceftazidime và tobramycin có thể là những lựa chọn phù hợp trong điều trị nhiễm trùng do P. aeruginosa.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Tacconelli, et al (2018). Discovery, research, and development of new antibiotics: the WHO priority list of antibiotic-resistant bacteria and tuberculosis. Lancet Infect Dis, 18(3): p. 318-327.
2. Helio S. Sader, et al (2019). Geographical and temporal variation in the frequency and antimicrobial susceptibility of bacteria isolated from patients hospitalized with bacterial pneumonia: results from 20 years of the SENTRY Antimicrobial Surveillance Program (1997-2016). J Antimicrob Chemother, 74: p. 1595–1606.
3. Bộ Y tế (2017). Hướng dẫn thực hành kỹ thuật xét nghiệm Vi sinh lâm, Nhà xuất bản y học, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Huyền và cộng sự (2023). Mức độ kháng kháng sinh của Pseudomonas aeruginosa phân lập được tạo Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên năm 2017-2021. Tạp chí Y học Việt Nam, tập 523, số 1, tr 115-119.
5. Trần Đình Bình và cộng sự (2021). So sánh tính đề kháng kháng sinh của một số loài vi khuẩn gây bệnh thường gặp tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế năm 2018 và 2019. Tạp chí Y Dược Lâm sàng, tập 108, tr 149-157.
6. Lê Văn Cường, Dương Quang Hiệp (2020). Sự phân bố và tính kháng thuốc của trực khuẩn mủ xanh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa năm 2020, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 511, số 1, tr 114-118.
7. Nguyễn Thị Đoan Trinh và cộng sự (2023). Đặc điểm gây bệnh và tính kháng kháng sinh của Pseudomonas aeruginosa tại Bệnh viện C Đà Nẵng. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, số 58, tr 159-166.
8. Lubna Farooq, et al (2019). Frequency and antibiogram of multi-drug resistant Pseudomonas aeruginosa in a Tertiary Care Hospital of Pakistan. Original Article, 35(6): p. 1622–1626.