PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NUÔI CẤY VI KHUẨN TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN ĐƯỜNG TIÊU HÓA CẦN CAN THIỆP PHẪU THUẬT

Hà Thị Thúy Hằng1, Phạm Hồng Hạnh2, Đặng Quốc Ái3,4,
1 Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
2 Trường Đại học Y Hà Nội
3 Đại học Y Hà Nội
4 Bệnh Viện E

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Nghiên cứu tập trung vào vấn đề nhiễm khuẩn đường tiêu hóa cần can thiệp phẫu thuật, đây là một bệnh lý cấp tính phổ biến trong cấp cứu ngoại khoa. Tình trạng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn đang ngày càng gia tăng, gây thất bại trong điều trị và tăng nguy cơ tử vong, kéo dài thời gian nằm viện. Do đó, việc thực hiện những khảo sát vi sinh là cần thiết để hỗ trợ định hướng sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm của các bác sĩ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện thông qua phân tích bệnh án của bệnh nhân nhiễm khuẩn đường tiêu hóa có can thiệp phẫu thuật và nuôi cấy định danh vi khuẩn tại khoa Ngoại Tổng Hợp - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2023 đến tháng 6 năm 2024. Kết quả: Bệnh lý nhiễm khuẩn đường tiêu hóa cần can thiệp phẫu thuật trong nghiên cứu chủ yếu là nhiễm khuẩn đường mật, chiếm 87,53%. Cụ thể, vi khuẩn Gram âm tiết men β-lactamase phổ rộng (ESBL) có tỉ lệ cao: Escherichia coli là 57,89% và Klebsiella spp. là 28,33%. Ba chủng vi khuẩn chính gây bệnh trong nghiên cứu là Escherichia coli, Enterococcus spp. và Klebsiella. Escherichia coli thể hiện sự đề kháng với ampicillin/ sulbactam ở mức 88,37% và ciprofloxacin ở mức 75,57%. Trong khi đó, Klebsiella spp. có tỉ lệ đề kháng cao với ampicillin/sulbactam (100%), ciprofloxacin (62,07%) và cefotaxime (57,89%). Kết luận: Tình hình vi khuẩn Gram âm tiết ESBL trong bệnh nhân nhiễm khuẩn đường tiêu hóa đang đáng báo động, với mức độ đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn Gram âm đối với nhóm kháng sinh penicillins, cephalosporins thế hệ 3, quinolones ngày càng cao.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Fredric MP, Philip SB. (2007). “Intra-abdominal infections”, Current Opinion in Critical Care, 13:440–449.
2. Pieracci FM, Barie PS. (2007). “Management of severe sepsis of abdominal origin”Scand J Surg, 96(3):184-96.
3. Mulier S, Penninckx F, Verwaest C. (2003). “Factors Affecting Mortality in Generalized Postoperative Peritonitis: Multivariate Analysis in 96 Patients”, World J Surg, 27(4):379-84.
4. Rimola A, García-Tsao G, Navasa M. et al (2000). “Diagnosis, treatment and prophylaxis of spontaneous bacterial peritonitis: a consensus document”, Journal of Hepatology, 32:142-153.
5. Nguyễn Văn Kính (2010). ”Phân tích thực trạng: Sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh ở Việt Nam”, nghiên cứu quốc gia Việt Nam GARP.
6. Hà Thị Thúy Hằng, Đặng Quốc Ái (2015). “Thực trạng sử dụng kháng sinh trong điều trị nhiễm khuẩn ổ bụng tại khoa Ngoại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội”, tạp chí Y học thực hành
7. Mazuski JE, Tessier JM, May AK, et al (2017). “The Surgical Infection Society Revised Guidelines on the Management of Intra-Abdominal Infection”. Surg Infect (Larchmt); 18:1.
8. McHutchison JG, Runyon BA (1995). “Spontaneous bacterial peritonitis. In: Gastrointestinal and Hepatic Infections”, Surawicz CM, Owen RL (Eds), WB Saunders, Philadelphia. p.455.
9. Phạm Hùng Vân (2011). “Vi khuẩn Gram âm đề kháng kháng sinh thực trạng tại Việt Nam và các điểm mới về chuẩn mực biện luận đề kháng”, tạp chí y học Hồ Chí Minh , tr.138-148.