ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG PROPESS TRÊN THAI PHỤ CÓ THAI ĐỦ THÁNG TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI TỈNH PHÚ THỌ
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Khởi phát chuyển dạ (KPCD) là can thiệp chủ động để gây ra cơn co tử cung (CCTC) và sự xóa mở cổ tử cung (CTC) giống như chuyển dạ tự nhiên, nhằm mục đích giúp thai nhi sổ ra ngoài theo đường âm đạo trước khi chuyển dạ tự nhiên. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả khởi phát chuyển dạ bằng Propess. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện theo thiết kế mô tả cắt ngang hồi cứu số liệu có sẵn qua bệnh án các thai phụ năm 2023. Kết quả: Nghiên cứu được tiến hành trên 70 thai phụ theo phương pháp cắt ngang. Có 90,0% sản phụ không sử dụng Oxytocin và 10,0% được sử dụng; 57,2% không dùng thuốc làm mềm cổ tử cung, 42,8% có sử dụng; chỉ 4,2% được gây tê ngoài màng cứng. Phần lớn thai phụ không có tiền sử bệnh lý (97,1%); con so chiếm 68,6%, con dạ chiếm 31,4%. Thời gian khởi phát chuyển dạ đến lúc đẻ chủ yếu từ 6–12 giờ (45,7%), tiếp đến là < 6 giờ (28,6%) và > 12 giờ (25,7%). Hình thức sinh mổ chiếm 55,7%, sinh đường âm đạo chiếm 44,3%. Tỷ lệ khởi phát chuyển dạ thất bại là 12,8%; tỷ lệ khởi phát chuyển dạ thành công ở pha tiềm tàng là 87,1%, ở pha tích cực là 70,0%; tỷ lệ khởi phát chuyển dạ thành công và sinh đường âm đạo chiếm 38,6%. Có 97,2% trẻ sơ sinh có chỉ số Apgar trên 7 điểm, 2,8% dưới 7 điểm; cân nặng sơ sinh trung bình 3197 ± 355g (nhỏ nhất 2200g, lớn nhất 3800g). Biến chứng thường gặp nhất là cơn co tử cung cường tính (25,7%), không ghi nhận trường hợp vỡ tử cung, chảy máu sau đẻ hoặc nhiễm trùng. Kết luận: Việc sử dụng Propess đạt hiệu quả cao, an toàn trong khởi phát chuyển dạ cho thai phụ đủ tháng, hạn chế các biến chứng sản khoa nghiêm trọng
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Khởi phát chuyển dạ (KPCD), Propess, thai phụ
Tài liệu tham khảo
2. Pierce S, Bakker R, Myers DA, Edwards RK (2018). Clinical Insights for Cervical Ripening and Labor Induction Using Prostaglandins. AJP Rep. 2018;8(4): e307-e314.
3. Vince K, Matijević R (2022). Comparison of intracervical and intravaginal prostaglandin E2 for induction of labor in term pregnancies with unfavorable cervix: Randomized controlled trial. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol. 2022; 270:100-104. doi: 10.1016/j.ejogrb.2022.01.004
4. Itoh H, Ishii K, Shigeta N, et al (2021). Efficacy and safety of controlled-release dinoprostone vaginal delivery system (PROPESS) in Japanese pregnant women requiring cervical ripening: Results from a multicenter, randomized, double-blind, placebo-controlled phase III study. J Obstet Gynaecol Res. 2021;47(1):216-225. doi:10.1111/jog.14472
5. Lâm Đức Tâm, Lâm Thị Ngọc Thảo, Huỳnh Thanh Liêm, et al (2025). Hiệu quả và an toàn của khởi phát chuyển dạ bằng dinoprostone trên thai quá ngày dự sinh có chỉ số bishop cải tiến <6 tại bệnh viện phụ sản thành phố cần thơ năm 2024. Tạp Chí Học Việt Nam. 2025;550(3). doi:10.51298/vmj. v550i3.14368
6. Nguyễn Hữu Trung, Lê Thị Mỹ Hạnh, Phạm Hùng Cường (2025). Hiệu quả và an toàn của khởi phát chuyển dạ với prostaglandin e2 trên thai quá ngày dự sinh tại bệnh viện nhân dân gia định. Tạp Chí Học Việt Nam. 2025;546(3). doi:10.51298/vmj. v546i3.12776
7. Thái Bằng, Đinh Thanh Hà, Cao Xuân Thành, et al (2023). Nghiên cứu hiệu quả khởi phát chuyển dạ bằng Propess tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang. Tạp Chí Phụ Sản. 2023; 21(4-5):75-81. doi:10.46755/vjog.2023.4-5.1629
8. Phạm Chí Kong, Bùi Thị Viễn Phương (2021). Nghiên cứu hiệu quả khởi phát chuyển dạ bằng propess đặt âm đạo. Tạp Chí Phụ Sản. 2021; 19(1): 38-47. doi:10.46755/vjog.2021. 1.1173
9. Nguyễn Thị Dung, Trần Quang Hanh, Bùi Sơn Thắng, et al. Đánh giá hiệu quả của phương pháp khởi phát chuyển dạ bằng propess® trên bệnh nhân có thai kỳ nguy cơ cao tại bệnh viện sản nhi nghệ an năm 2024 (2025). Tạp Chí Học Cộng Đồng. 2025;66(CĐ6-HNKH Bệnh viện Sản nhi Nghệ An). doi: 10.52163/ yhc.v66iCD6.2287
10. Nguyễn Khánh Trang Huỳnh, Thường Bản Tăng (2025). Hiệu quả của propess làm chín mùi cổ tử cung và khởi phát chuyển dạ trên thai đủ trưởng thành tại Bệnh viện Hùng Vương. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 2021.25(1):238 - 243