KẾT QUẢ PHẪU THUẬT MÁU TỤ DƯỚI MÀNG CỨNG CẤP TÍNH DO CHẤN THƯƠNG Ở NGƯỜI BỆNH TRÊN 60 TUỔI
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Nhận xét lâm sàng, hình ảnh cắt lớp vi tính và kết quả phẫu thuật máu tụ dưới màng cứng cấp tính do chấn thương ở người bệnh trên 60 tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 62 bệnh nhân máu tụ dưới màng cứng cấp tính do chấn thương ở người trên 60 tuổi được điều trị bằng phẫu thuật tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức từ 01/01/2021 – 31/12/2021. Kết quả: Tuổi trung bình: 67,7 ± 5,5. Tỉ lệ nam/nữ: 1,86. Nguyên nhân chấn thương thường gặp nhất là tai nạn sinh hoạt (51,6%) Triệu chứng lâm sàng: Đa số bệnh nhân vào viện có điểm Glasgow 9 – 12 điểm (45,2%). Yếu liệt nửa người (32,3%). Giãn đồng tử (22,5%). Hình ảnh cắt lớp vi tính: máu tụ dưới màng cứng bán cầu trái (53,2%), bề dày khối máu tụ từ 11–15mm (50%). 100% bệnh nhân có mức độ di lệch đường giữa >5 mm, tình trạng phù não, xóa bể đáy là 4,8%. Đa số được phẫu thuật mở volet xương sọ lấy máu tụ, cầm máu, bỏ mảnh xương để giảm áp (92%) Kết quả điều trị xấu chiếm (48,4%). Kết luận: Máu tụ dưới màng cứng cấp tính ở người bệnh trên 60 tuổi nguyên nhân chấn thương chủ yếu do tai nạn sinh hoạt (51,6%). Đa số được phẫu thuật mở volet xương sọ lấy máu tụ, cầm máu, bỏ mảnh xương để giảm áp (92%) Kết quả xấu chiếm (48,4%).
Chi tiết bài viết
Tài liệu tham khảo
2. Đàm Quang Thịnh. Nghiên Cứu Đặc Điểm Lâm Sàng, Cận Lâm Sàng và Kết Quả Điều Trị Chấn Thương Sọ Não Cấp Tính ở Người Cao Tuổi. Luận văn Bác sĩ CKII. Đại học Y Hà Nội; 2014.
3. Nguyễn Thành Nam. Kết Quả Điều Trị Máu Tụ Dưới Màng Cứng Cấp Tính Tại Bệnh Viện Đa Khoa Tỉnh Vĩnh Phúc. Luận văn Chuyên khoa cấp II. Đại học Y Hà Nội; 2020.
4. Akbik OS, Starling RV, Gahramanov S, Zhu Y, Lewis J. Mortality and functional outcome in surgically evacuated acute subdural hematoma in elderly patients. World Neurosurg. 2019; 126:e1235-e1241.
5. Bus S, Verbaan D, Kerklaan BJ, et al. Do older patients with acute or subacute subdural hematoma benefit from surgery? Br J Neurosurg. 2019;33(1):51-57.