ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ K¬¬ẾT QUẢ LỌC MÁU HẤP PHỤ TRÊN BỆNH NHÂN COVID-19 ĐIỀU TRỊ TẠI TỈNH NGHỆ AN

Nguyễn Xuân Quảng1, Đỗ Ngọc Sơn2,, Quế Anh Trâm1, Nguyễn Đức Phúc1
1 Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An
2 Bệnh viện Bạch Mai

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Việc điều trị bệnh nhân COVID-19 đặc biệt là những bệnh nhân nặng và nguy kịch vẫn là thách thức đối với nền y tế còn hạn chế trong bối cảnh hiện nay của nước ta. Lọc máu hấp phụ đã được chỉ ra là một biện pháp điều trị hiệu quả và an toàn trong việc loại bỏ các cytokine trong điều trị bệnh nhân COVID-19. Mục tiêu nghiên cứu: 1). Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân COVID-19 được lọc máu hấp phụ; 2). Nhận xét kết quả điều trị các bệnh nhân COVID-19 trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 28 bệnh nhân COVID-19 được điều tr­ị lọc máu hấp phụ trong thời gian từ 6/2021 đến 12/2022 tại các cơ sở điều trị của tỉnh Nghệ An. Các kết quả điều trị được thu thập và so sánh ở thời điểm trước và sau lọc máu.  Kết quả: Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 61,7 ± 11,4. Tuổi nhỏ nhất là 31 tuổi và lớn nhất là 87 tuổi. Tỉ lệ nam mắc COVID 19 chiếm ưu thế hơn (53,6%) so với nữ (46,4%). 92,8% bệnh nhân khó thở; sốt 85,7%; ho khan 85,7%; mất khứu giác 14,3%. Huyết áp trung bình là 82,7±9,2mmHg; mạch 99,5±13,4l/p, SpO2 91,6±8,7%. Các xét nghiệm pH 7,33 ± 0,1; PaO2 77,4±34,2mmHg; PaO2/FiO2 123,6±91,1; CRP 110.4 ±94,7mg/l; ferritin 1791,4 ±1467,8ng/mL; LDH 418,8±142,4U/L; D-dimer 3646,2 ±4461,3 mcg/l. Số quả lọc HA 330 trung bình được sử dụng là 3,1 ±1,1 với thời gian lọc HA 330 trung bình là 12,4± 4,7 giờ và chống đông được sử dụng chủ yếu là heparin (chiếm 96,4%). Bệnh nhân lọc máu hấp phụ sớm (trước 72 giờ) có tỉ lệ sống cao hơn những bệnh nhân lọc máu hấp phụ sau 72 giờ. Kết luận: Triệu chứng thường gặp nhất ở bệnh nhân COVID-19 nặng, nguy kịch là khó thở, sốt, ho khan. Bệnh nhân lọc máu hấp phụ sớm (trước 72 giờ) có tỉ lệ sống cao hơn những bệnh nhân lọc máu hấp phụ sau 72 giờ.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Importance of Cellular Immunity and IFN-γ Concentration in Preventing SARS-CoV-2 Infection and Reinfection: A Cohort Study - PubMed. Accessed December 22, 2023. https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/36992500/
2. Bộ Y tế, Quyết định Số: 250/qđ-byt về việc ban hành hướng dẫn chẩn đoán và điều trị covid-19. 2022.
3. Bộ Y tế, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19, Ban hành kèm theo Quyết định số 4689/QĐ-BYT ngày 06 tháng 10 năm 2021, Hà Nội, tr.46-47. 2021.
4. Lympic PV, Phước DT. NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG TRÊN BỆNH NHÂN COVID-19 NẶNG VÀ NGUY KỊCH CÓ LỌC MÁU HẤP PHỤ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ CẦN THƠ. ctump. 2022;(49):46-53. doi:10. 58490/ctump.2022i49.208
5. Alavi Darazam I, Kazempour M, Pourhoseingholi MA, et al. Efficacy of Hemoperfusion in Severe and Critical Cases of COVID-19. Blood Purif. 2023;52(1):8-16. doi:10.1159/000524606
6. Bonanad C, García-Blas S, Tarazona-Santabalbina F, et al. The Effect of Age on Mortality in Patients With COVID-19: A Meta-Analysis With 611,583 Subjects. J Am Med Dir Assoc. 2020; 21(7): 915-918. doi: 10.1016/ j.jamda.2020.05.045
7. ALIMOHAMADI Y, SEPANDI M, TAGHDIR M, HOSAMIRUDSARI H. Determine the most common clinical symptoms in COVID-19 patients: a systematic review and meta-analysis. J Prev Med Hyg. 2020;61(3): E304-E312. doi:10.15167/ 2421-4248/jpmh2020.61.3.1530
8. Caruso PF, Angelotti G, Greco M, et al. The effect of COVID-19 epidemic on vital signs in hospitalized patients: a pre-post heat-map study from a large teaching hospital. J Clin Monit Comput. 2022; 36(3): 829-837. doi:10.1007/ s10877-021-00715-y
9. Pranshu K, Shahul A, Singh S, Kuwal A, Sonigra M, Dutt N. Predictors of mortality among hospitalized patients with COVID-19: A single-centre retrospective analysis. Can J Respir Ther. 2022;58:98-102. doi: 10.29390/ cjrt-2022-019
10. Tang Y, Liu J, Zhang D, Xu Z, Ji J, Wen C. Cytokine Storm in COVID-19: The Current Evidence and Treatment Strategies. Frontiers in Immunology. 2020;11. Accessed December 25, 2023. https://www.frontiersin.org/ articles/10. 3389/ fimmu.2020.01708